Thursday, January 23, 2025

Tìm hiểu về phong tục - NGÀY TẾT - TỪ “TẾT” CÓ TỰ BAO GIỜ?

Tra trong dã sử (sách ghi chép của dân gian), tại Lĩnh Nam Chích Quái (Trần Thế Pháp, đời nhà Trần), sách ghi chuyện xưa ở xứ Lĩnh Nam có dùng từ “Tết”. Ở Truyện bánh chưng 蒸餅傳có nói đến bầu không khí cuối năm với từ歲時節候tuế thì tiết hậu (năm hết) và từ 節料Tiết Liệu (Tết Liêu): 至期,王命諸子具陳所獻,歷而觀之,無物不有。惟郎僚獨獻蒸餅、薄持餅。王驚異,問之,郎僚具以夢對。王親嘗之,適口不厭,勝於諸子所陳之物,嘆美良久。乃以郎僚為第一,歲時節候,常以是餅奉事父母,天下效之至今。以名郎僚,故呼謂節料。

Phiên âm: chí kỳ, vương mệnh chư tử cụ trần sở hiến, lịch nhi quan chi, vô vật bất hữu。duy lang liêu độc hiến chưng bính, bạc trì bính 。vương kinh dị, vấn chi, lang liêu cụ dĩ mộng đối。vương thân thường chi, thích khẩu bất yếm, thắng ư chư tử sở trần chi vật, thán mỹ lương cửu。nãi dĩ lang liêu vi đệ nhất,tuế thì tiết hậu, thường dĩ thị bính phụng sự phụ mẫu, thiên hạ hiệu chi chí kim。 dĩ danh lang liêu, cố hô vị tiết liệu。


Dịch nghĩa: Đúng kỳ, Vương lệnh các con lại trưng bày phẩm vật; các con đem dâng không thiếu thứ gì, duy chỉ có chàng Liêu đem dâng bánh chưng, bánh dầy. Chàng Liêu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vương thân hành nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không sao hơn được. Vương khen ngợi giây lát, rồi cho chàng Liêu được giải nhất. Năm hết, vua dùng bánh ấy dâng lên Tiên Miếu và cung phụng cha mẹ, thiên hạ bắt chước truyền đến bây giờ, lấy tên của chàng Liêu để gọi là Tết Liệu[1].
Tra trong chính sử: Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư[2] (Lê Văn Hưu, 1272 và Ngô Sĩ Liên, 1697), chương Kỉ Sĩ Vương [19a*1-2*1]:中元節罷執卓以遇靈仁太后盂蘭盆日故也.占城來貢.‖ Phiên âm: Trung Nguyên tiết[3] bãi chấp trác, dĩ ngộ Linh Nhân thái hậu Vu Lan bồn nhật cố dã. Chiêm Thành lai cống. ‖ Dịch nghĩa: Tết Trung Nguyên vì gặp ngay Lễ Vu lan bồn [cầu siêu cho] Linh Nhân hoàng thái hậu. Chiêm Thành sang cống.
Tra cứu nơi từ điển:
+ Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum, Tự vị Việt-Bồ-La, tr. 731, Lm. Alexandre de Rhodes (1591-1660) ‖ tết: festa do anno nouvo recentis anni festum (lễ hội mừng năm mới).
+ Dictionarium Anamitico-Latinum – Giám mục P.J. Pigneaux (1772) bản viết tay và Tự vị An Nam Latinh (tr. 446), tác giả Nguyễn Khắc Xuyên dịch sang tiếng Việt, Nxb Trẻ (1999) ‖ 節tết: lễ hội mừng năm mới, phẩm vật thường dâng cúng vào đầu năm mới hoặc ngày mồng năm tháng năm.
+ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của ấn bản 1895-1896, Tome II, tr. 354. ‖ 節tết: lễ năm mới, tiết đầu năm; đem của lễ mà dâng hoặc cho nhau trong ba ngày xuân.
Qua tra cứu, từ tiết để chỉ thời khắc đã được dùng trong Lĩnh Nam Chích Quái và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Thời Hồng








Bàng, người Lạc Việt đã có chữ viết[4] và tiếng nói riêng (không phải chữ Hán, không phải âm tiếng Việt có dấu thanh như hiện nay), vậy từ 節料tiết liệu (Tết Liệu) do Trần Thế Pháp sử dụng để kể lại, chứ không thể có từ thời ấy. Như thế chí ít, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, từ tiết được dùng từ thế kỷ XIII.

Đến khi có chữ phiên âm Latinh (tạm gọi là chữ quốc ngữ), từ tết được dùng trong Tự vị Việt-Bồ-La củaLm. Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên, từ tết trong tự vị đó có phải do từ tiết Nôm hóa hay không thì chưa rõ vì thiếu từ Hán đi kèm.
images22403_Tet_nguyendanTrong Tự vị An Nam Latinh củaGm. P.J. Pigneaux, từ節tết được xác định rõ là từ Nôm hóa của từ tiết (節) Hán. Tham khảo qua các từ điển Hán Việt, từ tiết (節) có đến mười lăm nghĩa khác nhau, nhưng nghĩa ở mục 6 là phù hợp nhất:
1. (danh từ) Đốt, lóng (thực vật). Vd: tùng tiết 松節 đốt thông, trúc tiết 竹節 đốt tre.
2. (danh từ) Khớp xương, đốt xương (động vật). Vd: cốt tiết 骨節 đốt xương, chỉ tiết 指節 đốt ngón tay, kích tiết 擊節 vỗ tay.
3. (danh từ) Phần, khúc, đoạn, mạch. Vd: chương tiết 章節 phần đoạn bài văn, chương sách.
4. (danh từ) Phân khu (thời gian, khí hậu). Vd: quý tiết 季節 mùa trong năm, nhị thập tứ tiết khí 二十四節氣 hai mươi bốn tiết trong năm: lập xuân 立春, vũ thủy雨水, kinh trập 驚蟄, xuân phân 春分, v.v.
5. (danh từ) Sự, việc. Vd: chi tiết 枝節, tình tiết 情節.
6. (danh từ) Ngày lễ, ngày hội (mang ý nghĩa đặc thù: sinh nhật, kỉ niệm, khánh hạ, v.v.). Vd: thanh minh tiết 清明節 tiết thanh minh, trung thu tiết 中秋節 ngày lễ trung thu (rằm tháng tám), thanh niên tiết 青年節 ngày tuổi trẻ.
7. (danh từ) Chí khí, tư cách hợp đạo, đúng lễ. Vd: tiết tháo 節操 hành vi giữ đúng lễ nghĩa, danh tiết 名節 trung nghĩa.
8. (danh từ) Lễ nghi. Vd: lễ tiết 禮節 lễ nghi. ◇Luận Ngữ 論語: Trưởng ấu chi tiết, bất khả phế dã 四體不勤, 五穀不分 (Vi Tử 衛子) Lễ nghi thứ tự giữa người lớn và trẻ nhỏ, không thể bỏ được.
9. (danh từ) Vật làm tin của sứ giả thời xưa. § Thông tiết 卩. Vd: phù tiết 符節 ấn tín của sứ giả, sứ tiết 使節 sứ giả.
10. (danh từ) Cái phách (nhạc khí). Vd: tiết tấu 節奏 nhịp điệu.
11. (danh từ) Lượng từ: (1) Số giờ giảng học. Vd: kim thiên thượng liễu tam tiết khóa 今天上了三節課 hôm nay lên lớp ba tiết (giờ học). (2) Toa xe. Vd: giá liệt hỏa xa hữu thập nhị tiết xa sương 這列火車有十二節車廂 xe lửa này có mười hai toa. (3) Đoạn, khúc (bài văn, bản nhạc). Vd: đệ nhị chương đệ nhất tiết 第二章第一節 chương hai tiết một.
12. (danh từ) Họ Tiết.
13. (động từ) Hạn chế, ước thúc. Vd: tiết dục 節育 hạn chế sinh đẻ, tiết chế 節制ngăn chận.
14. (động từ) Kiệm tỉnh, tằn tiện. ◇Luận Ngữ 論語: Tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thì 節用而愛人,使民以時 (Học nhi 學而) Không lãng phí mà thương người, sai dân làm việc, phải hợp thời vụ.
15. (tính từ) Cao ngất. ◇Thi Kinh 詩經: Tiết bỉ Nam San, Duy thạch nham nham節彼南山, 維石巖巖 (Tiểu nhã 小雅, Tiết nam san 節南山) Cao vòi vọi, núi Nam Sơn kia, (Trông lên) chỉ thấy đá lởm chởm.
TỪ “NGUYÊN ĐÁN” CÓ TỰ BAO GIỜ?
duxuantetviet_1Đán (旦) có nghĩa là ngày. Trước khi có từ nguyên đán, người xưa đã dùng từ chính đán.
– Tra trong chính sử: Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Lê Văn Hưu, 1272 và Ngô Sĩ Liên, 1697), chương Kỉ Nhà Lý, Nhân Tông hoàng đế [9a*8*15]: 重日南人初入洛正旦大會晋明帝曰日南北視日耶重對曰今郡中有雲者不必有其實至於風氣暄暖日影仰於生民之上則有之矣上則有之矣.‖ Phiên âm: Trọng Nhật Nam nhân sơ nhập Lạc, chính đán đại hội, Tấn Minh Đế viết: “Nhật Nam bắc thị nhật da?”. Trọng đối viết: “Kim quận trung hữu Vân giả bất tất hữu kỳ thực. Chí ư phong khí huyên noãn, nhật ảnh ngưỡng ư sinh dân chi, thượng tắc hữu chi hĩ”. ‖ Dịch nghĩa: Trọng[5] người quận Nhật Nam, khi trước đến Lạc Dương, gặp hội lớn tết Nguyên Đán, Tấn Minh Đế hỏi: “Ở quận Nhật Nam hướng về phía bắc để trông Mặt Trời phải không?” Trọng đáp rằng: “Nay trong các quận, có quận gọi là Vân Trung (trong mây), là Ki thì vẫn có thể”.
– Tra cứu nơi từ điển:
+ Dictionarium Anamitico-Latinum – Giám mục P.J. Pigneaux (1772) bản viết tay và Tự vị An Nam Latinh (tr. 446), tác giả Nguyễn Khắc Xuyên dịch sang tiếng Việt, Nxb Trẻ (1999) ‖ 旦đán – tiết chính đán: ngày mồng 5 tháng 5 mọi người đều mừng lễ. ‖ lễ chính đán: phẩm vật dâng cúng trong ngày đó.
+ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của ấn bản 1895-1896, Tome I, tr. 264. ‖ 旦đán: ngày, sớm. ‖ chánh đán: ngày mồng một tết. ‖ 端午正旦Đoan ngũ[6] chánh đán: Tiết mồng năm tháng năm và ngày tết.
+ Hán Việt Tân Từ điển của Hoàng Thúc Trâm (1951), tr. 527 ‖ nguyên đán tiết 元旦節: tết ngày đầu năm, mồng một tháng giêng âm lịch.
+ Từ điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1951 – tr. 434) ‖ nguyên đán: ngày mồng một tháng giêng năm âm lịch, ngày đầu năm: Tết nguyên đán.
+ Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (phát hành lần đầu năm 1931, bản in tháng 1-1954), tr. 398, 元nguyên: mới, khởi đầu. ‖元旦nguyên đán: ngày mồng một đầu năm.
Qua tra cứu, ban đầu, từ chính (chánh) đán 正旦được dùng để chỉ ngày tết. Cho đến thập niên năm mươi từ nguyên đán mới thay thế từ chính (chánh) đán trong từ điển và trong đời sống. Như vậy cụm từ tết nguyên đán được sử dụng vào khoảng đầu thế kỷ XX, trước đó là chính đán tiết.
-------------------------
Michel Nguyễn Hạnh

[1] Gọi chính xác là Tết Liêu. Bởi vì tiết 節có nghĩa là ngày lễ, (Trung thu tiết, Nguyên tiêu tiết) và Liêu 僚 (bộ nhân ) là tên chàng Liêu. Thế nhưng tiết được hóa Nôm thành tết, chàng Liêu lên ngôi vua nên theo phép kỵ húy (vào lúc Trần Thế Pháp, đời nhà Trần kể lại) nên được đổi thành Liệu 料 (bộ đẩu 斗), vì liệu còn có âm đọc là liêu.
[2] Đại Việt Sử Ký do Lê Văn Hưu biên soạn (1272), dâng lên vua Trần Thánh Tông và Ngô Sĩ Liên chủ biên để soạn lại thành Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697).
[3] Tết Trung Nguyên vào rằm tháng 7 âm lịch.
[4] Đã có nhà nghiên cứu chứng thực rằng người Việt cổ dùng chữ Khoa đẩu và tiếng nói không có dấu thanh.
[5] Trọng: Trương Trọng, thái thú Kim Thành.
[6] Tết Đoan ngọ được mừng vào ngày 5 tháng 5 nên người xưa còn gọi là tết Đoan ngũ.

Wednesday, January 22, 2025

Đâu là địa điểm thật sự diễn ra việc Chúa Giêsu chịu phép rửa?

 WHĐ (20/01/2025) - Để khép lại mùa Giáng Sinh, Giáo hội Công giáo mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan Baotixita, anh em họ của Người. Ngành khảo cổ học đang vất vả để xác định địa điểm chính xác nơi diễn ra sự kiện. Khi đọc lại Cựu Ước, có vẻ như Đức Kitô đã được rửa tội ở phía đông sông Giođan, để khơi mào cho sự đăng quang cuối cùng của Đất Hứa.

Ngành khảo cổ học thật kiên trì. Từ nhiều thế kỷ nay, ngành vẫn tìm tòi dấu vết và bằng chứng về câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đó đúng là mục đích của môn khoa học này, nhưng trong trường hợp cụ thể đang nói, nó rất vất vả để nhận diện vùng Bêtania “bên kia sông Giođan” mà Gioan Thánh sử đề cập (Gioan 1,28), được truyền thống ấn định ở Đông Nam thành Giêricô. Ngày nay ở nơi gọi là Al-Maghtas (tiếng ả rập nghĩa là dìm xuống nước), phía vương quốc Giođani, có một thánh địa và là điểm đến của nhiều cuộc hành hương. Dù người ta không biết cụ thể thánh Gioan Tẩy Giả giảng đạo ở đâu, vẫn rất khó để nghi ngờ rằng ông đã không dìm người anh em Giêsu của mình xuống nước, vì câu chuyện này là một trong những đoạn hiếm hoi của Tân Ước được cả bốn vị Thánh Sử thuật lại.

Hình: Địa điểm diễn ra việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại Giođani, Shutterstock I DimaSid

Tuy vậy, đức tin và truyền thống vẫn cho phép bổ sung cho đủ những sự mò mẫm của khảo cổ học. Cỏ vẻ rõ ràng là việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã diễn ra ở phía đông sông Giođan, như tông đồ Gioan đã nói. Nhưng ý nghĩa của sự kiện là gì ? Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ công khai của mình bằng cách vượt qua sông như một chứng tá. Người anh em họ Gioan Tẩy Giả của Chúa thực hành nghi thức thanh tẩy và tiên tri ngày đấng Messia (Cứu Thế) đến. Thánh nhân loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần (Mt 3,2) và khi đấng Kitô đến thánh nhân chỉ vào Người : “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Gioan 1,29) trong lúc giải thích: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần (Mc 1,8). Đây chính là đấng Cứu độ đã hứa và được mong chờ, đúng như lời Kinh Thánh, “Chúa cứu”.

Cuộc vượt qua sông Giođan của Jôsuê

Nhưng vị mang tên “Chúa cứu” đầu tiên trong Kinh Thánh không ai khác hơn là ông Jôsuê, một cái tên đồng nghĩa với tên Giêsu, Jôsuê là cánh tay mặt của ông Môisen. Ông Môisen và cả thế hệ của ông không nhìn thấy Đất Hứa, điểm đến của cuộc di cư dài thăm thẳm trong sa mạc từ vùng đất nô lệ Ai Cập. Chúa đã dẫn họ đi trong sa mạc 40 năm, nhưng những lời thở than, rên rỉ của họ, dấu hiệu của thiếu lòng tin, ngăn họ đến được vùng đất của sữa và mật mà Chúa cho họ. Quả vậy, đến đất hứa không phải là đương nhiên mà là hành động thể hiện đức tin ra bên ngoài. “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. Hôm nay tôi truyền cho anh (em) phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh (em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu” (Dnl 30, 15-16).

Môisen chết ở phía đông sông Giođan, trên núi Nebo (nê-bô), lúc ngắm nhìn mảnh đất mà ông sẽ không được ở, chính Jôsuê được giao trọng trách dẫn dân Chúa vào xứ sở Canaan (Đất Hứa) để “sở hữu nó”. Do đó, ông đã vượt qua sông Giođan, không ướt chân giống như ở Biển Đỏ bốn mươi năm trước, dưới sự hiện diện của Chúa. “Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA đứng yên tại chỗ, nơi đất khô cạn giữa lòng sông Gio-đan, trong khi toàn thể Ít-ra-en qua sông trên đất khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết” (Gs 3,17). Phần tiếp theo ai cũng đã biết, được thuật lại rất dài trong Cựu Ước. Theo thời gian, những người Do thái không tuân thủ Giao Ước nữa, không sống theo luật, quay lại lối sống cũ, chờ đợi đấng Messia (cứu thế) đến giải thoát họ khỏi những kẻ áp bức… dần dần hiểu ra rằng Đất Hứa không phải là mảnh đất được mong chờ mà chính là cuộc sống muôn đời.

Chúa Giêsu, một Jôsuê mới

Đó là điều mà Đức Kitô đến để hoàn thành. Ông Josuê mới này khai trương Vương quốc của Thiên Chúa, đến gần với con người những không phải “từ thế giới con người”. Để khởi đầu công cuộc rao giảng, sẽ dẫn Người tới cái chết và sự sống lại, sẽ mở của Thiên Đàng cho con người, xứ sở tràn trề cuộc sống thánh thiêng, Người cùng sẽ vượt qua sông Giođan. Nhưng cuộc vượt qua đó, phép rửa bằng nước, mới chỉ là biểu tượng của phép rửa trong Thánh Linh, một phép rửa mà các Tông đồ là những người được kêu gọi vào ngày Chúa Thăng Thiên, để đi rửa tội cho muôn dân, muôn nước. Nhưng cuộc vượt qua đó, được thực hiện từ vị trí thấp hèn, chính là dấu hiệu của sự tự hạ của Thiên Chúa làm người hầu cho phép mỗi người chúng ta mặc lấy thiên tính.

Lê Hưng chuyển ngữ

Từ: fr.aleteia.org 11/01/2025

Hai Con Rắn Trong Thánh Kinh_2025


 Nhâm Thìn qua, Quý Tỵ đang đến. Rồng Nhâm Thìn sắp bàn giao cho Rắn Quý Tỵ.
Nếu như tuổi rồng là cái gì đó bay bổng thanh cao thì con rồng lại không có thật. Còn con rắn nghe có vẻ nhỏ bé, thấp kém bò dưới đất nhưng lại có thật 100%.
Tỵ là năm thứ sáu trong chu kỳ tính âm lịch theo mười hai địa chi. Khi đặt tên cho 12 con giáp, người xưa đã xác định những đặc điểm sinh học của các loài vật, chú ý đến các thời điểm liên quan đến từng con vật cụ thể để ám chỉ ngày giờ cùng những chuyện liên quan khác. Với ý nghĩa như vậy, Tỵ thuộc về tháng 4 âm lịch. Căn cứ vào thực tế, người xưa cho rằng vào thời điểm này rắn bắt đầu lột xác, nó trở nên yếu ớt. Tháng 4 cũng là lúc vạn vật âm khí đã tàn, dương khí vươn mình. Do đó xét về dịch lý, Tỵ thuộc âm hỏa, đó cũng là ý nghĩa tượng hình của rắn trong dịch học phương Đông. Rắn là con vật tượng trưng cho dương khí, không chỉ mang trong mình ngọn lửa mạnh mẽ mà còn sinh ra khí dương. Trong ngày, Tỵ là lúc 10giờ sáng, Tỵ là hướng nam – đông nam, Tỵ là mùa hè trong năm. Người sinh năm Tỵ có ý hướng thượng, dám đảm nhận những công việc quá sức mình và thường hoàn thành mỹ mãn. Dường như người tuổi Tỵ thường có vẻ trầm tĩnh, có khi gây cảm giác lạnh lùng cho người mới tiếp xúc, cái lạnh lùng bề ngoài mang bản chất có lửa bên trong, nó sẽ được bộc lộ một cách phong phú dồi dào. Các nhà phong thủy dự đoán Quý Tỵ là năm của lạc quan, cải cách và thịnh vượng.
Trong truyền thuyết Hy lạp,Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Hai ngành y học và dược học đều liên quan tới sự sống con người. Cả hai đều nhận con rắn là biểu hiệu. Con rắn cuốn trên chiếc gậy là biểu hiệu của ngành y. Con rắn cuốn trên chiếc ly có chân, đầu hướng vào miệng ly, là biểu hiệu của ngành dược. Cả hai ngành nhận con rắn làm biểu hiệu vì người xưa, cả đông lẫn tây phương đều coi con rắn là tượng trưng cho sức mạnh. Người ta còn lầm tưởng con rắn là loài bất tử, do hiện tượng lột xác của nó. Cả đông lẫn tây đều truyền nhau câu truyện cổ tích, về sự bất tử của con rắn.
“Thuở trời đất vừa được dựng nên, Tạo Hoá muốn cho loài người đuợc bất tử, bằng cách lột xác, còn loài rắn thì tới già phải chết. Tạo Hoá liền sai sứ giả là vị Thiên lôi xuống trần nói ý định đó cho loài người. Tạo Hóa truyền Thiên lôi, khi gặp con người thì nói mệnh lệnh này:“Người già,người lột. Rắn già chạy tuột vô săng”.
Thiên lôi xuống trần, vừa đi vừa lẩm nhẩm mệnh lệnh của Trời, nhưng vì Thiên lôi lơ đãng, đọc đi đọc lại thế nào, mà khi xuống trần vừa gặp con người thiên lôi lại đọc: “Rắn già rắn lột. Người già chạy tuột vô săng”.
Vì thế mà con rắn được lột xác, còn con người sinh ra, lớn lên, già, chết, rồi phải đi vào săng, đem chôn”. (x.Đỗ đình Tiệm, Lương thực hằng ngày, tr 722).
Theo các điển tích ngày xưa, rắn có thể tu luyện thành tinh và lột da sống đời. Những “mãng xà tinh” này đều có viên ngọc trong đầu gọi là ngọc rắn, nếu người nào có viên ngọc này sẽ có thể nghe được tiếng nói của loài vật. Ngày xưa, có một anh học trò nghèo tên Công Dã Tràng vì cứu được một gia đình rắn nên được rắn chúa trả ơn bằng cách nhả cho môt viên ngọc. Một hôm, Dã Tràng ngậm viên ngọc rắn trong miệng đi vào rừng, chợt nghe bầy kiến xôn xao bảo nhau phải dời tổ lên cành cây cao vì trong vòng ba ngày sẽ có mưa lụt lớn. Nghe được tin này, Dã Tràng bèn tức tốc báo cho quan huyện sở tại để ra thông tri cho dân chúng chuẩn bị tránh nạn hồng thủy. Quả nhiên ba ngày sau trời đổ mưa tầm tã là vỡ đê gây lụt lớn. Nhưng dân cư trong vùng không bị thiệt hại vì đã đề phòng trước. Quan huyện tâu với triều đình vì Dã Tràng có ngọc rắn nghe được tiếng loài vật nên đã biết truớc có nạn lụt. Nhà vua rất thích, cho với Dã Tràng vào cung, ban cho một chức quan nhỏ để có thể cùng Dã Tràng du ngoạn đó đây, cùng nghe tiếng loài vật. Môt hôm, vua ngự thuyền rồng cùng Dã Tràng ra biển nghe tiếng cá. Chợt nhà vua nghe thấy một cặp cá vừa thong dong bơi lội, vừa thân mật trò chuyện với nhau. Thích quá, vua há miệng ra cười khiến viên ngọc rắn rơi xuống biển. Dã Tràng tiếc ngọc, nhảy xuống biển mò nên bị chết đuối. Tuy đã chết nhưng Dã Tràng vẫn muốn tìm viên ngọc nên biến thành con dã tràng là một loài cua nhỏ, hàng ngày bò lên bãi biển lấy cát mong lấp biển nhưng vẫn không bao giờ tìm lại được viên ngọc. Vì vậy, người đời thường ví những ai làm những việc không thể thực hiện được là “uổng công dã tràng”. Trong dân gian cũng có câu:
“Dã Tràng xe cát biển Ðông;
Nhọc mình mà chẳng nên công cán gì”.
Trong Thánh Kinh hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu (x. St 3) và được nhắc đến trên 40 lần.
Kinh Thánh trình bày về rắn cả hai ý nghĩa tốt xấu. Rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ cám dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi rắn được dùng như là biểu tượng của sự khôn ngoan: ” Hãy khôn ngoan như con rắn!” (Mt 10,16), hay rắn đồng cứu người.(x. Ds 21, 4-9).
Trong Cựu Ước có hai câu chuyện về rắn. Con rắn cám dỗ đưa tới sự chết tại địa đàng (St 3, 1-7) và con rắn đồng trong sa mạc cứu người nhìn lên nó (Ds 21, 6-9).
1. Rắn cám dỗ
Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví rắn là quỷ dữ (Satan): “Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế gian” (St 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).Khi cám dỗ Evà, Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (3,1b). Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:
– Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.
– Không được ăn cây nào cả.
Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện.
Người nữ phản kháng: Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.
Con rắn ngọt ngào dụ dỗ: Chẳng chết chóc gì đâu ! quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo, rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình. Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.
Người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan – cảm giác), mát mắt (thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống Chúa.
Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu, con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán đoán và quyết định.
Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã.
Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.
Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn ( 3,12). Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa: chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở với tôi. Người nữ đổ tội cho rắn: Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.
Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? Còn “trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không?
a. Con rắn
Trước tiên, hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ”. Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” theo nghĩa rộng như là một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.
Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Phải đợi đến thời Kitô giáo, “trái cấm” được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà, người nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam”. Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước và Tân Ước. Tư tưởng “máu đào tử đạo là hạt giống đức tin” có lẽ cũng mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.
Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).
Dân Cam Bốt tin rằng vương quốc Khmer do vua rắn sáng lập. Con đường dẫn đến ngôi đền chính tại Ankhor Wat của Cam Bốt được khảm bằng nhiều “naga” bảy đầu và cũng có nhiều hình rắn được tạc trên tường. Người Hy Lạp có rất nhiều thần thánh và huyền thoại liên quan tới rắn. Loại nữ trang cổ Hy Lạp thông dụng nhất mang hình rắn khoanh tròn. Thần Zeus được coi như vị thần tối cao, xuất hiện mỗi mùa xuân dưới dạng môt con rắn khoanh tròn cùng với nữ thần cai quản trái đất Rhea cũng mang hình rắn. Người Hy Lạp coi rắn là biểu tượng của đất và nước.
b. Trái cấm
Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem “trái cấm” đến dụ dỗ con người. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.
Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây.
Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.
Giai đoạn “Ađam và Evà bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm.
Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ”. (x. Nội san chia sẻ, số 52).
Có lẽ vì hình ảnh tinh ranh quỷ quyệt của rắn trong Vườn Ðịa Ðàng nên hầu hết các sắc dân trên thế giới đều dùng rắn để ví von với những hình tượng mang ý nghĩa xấu.
Trong tiếng Pháp, “serpent” là con rắn, nhưng người Pháp cũng dùng chữ “serpent” để chỉ loại người hiểm độc. Thí dụ như “langue de serpent” là ăn nói độc địa; “serpent caché sous fleurs” tức “rắn ẩn dưới hoa” là sự nguy hiểm nằm dưới bề ngoài đẹp đẽ không ngờ; “réchauffer un serpent dans son sein” tức “ủ rắn trong ngực” là nuôi họa vào thân hay nuôi ong tay áo. Người Anh cũng có những câu nói không đẹp về rắn. Thí dụ như “”snake in the grass” đồng nghĩa với “serpent sous fleurs”; “speak with forked tongue” là miệng lưỡi ăn nói độc địa như lưỡi rắn; “lower than a snake”s belly” để chỉ loại người đê tiện, hèn hạ, xảo trá, hèn hạ như không cón gì thấp hơn. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu “cõng rắn cắn gà nhà” để chỉ phường Việt gian bán nước, can tâm làm đầy tớ cho ngoại bang, cúi đầu khom lưng cõng giặc về làm hại đồng bào.
2. Rắn đồng sa mạcDân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và đi vào đời tự do. Suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp rất nhiều thử thách. Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai cập. Họ đã quá chán ngán manna rồi. Và thế, Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Thiên Chúa đã ra lệnh cho Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu sống. (x. Ds 21, 4-9). Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.Thiên Chúa luôn cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối Người.
Chúa Giêsu kể chuyện con rắn đồng và so sánh: ” Xưa Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, hầu cho mọi kẻ tin kính Ngài khỏi hư đi nhưng đuợc sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay, tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Ðức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ. Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, nhân loại được đưa đến đời sống vĩnh cữu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3, 16).
3. Chúa Giêsu – suối nguồn bình an
Trong sách Sáng Thế, con rắn là hình ảnh của sự quỷ quyệt và cám dỗ.
Đến sách Dân Số, con rắn trở nên biểu tượng cứu sống.
Hình ảnh con rắn đồng treo lên giữa sa mạc đã trở nên hình ảnh tiên báo Chúa Giêsu sẽ bị treo lên Thánh Giá. Nhờ đó, nhân loại được ơn cứu độ. Ngày xưa, nhờ nhìn lên con rắn đồng mà nhiều người đã ăn năn sám hối và được cứu thoát.Ngày nay,nhờ nhìn ngắm và tin vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh mà nhân loại “không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
Hai hình ảnh, con rắn bị treo lên và hình ảnh Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh cho thấy rõ tính liên hệ không gián đoạn giữa Cựu Ước và Tân Ước trong Nhiệm Cục Cứu Độ của Thiên Chúa. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước và Tân Ước làm cho Cựu Ước được ứng nghiệm, được thành toàn. Cả hai đều nhắm đến một mục đích duy nhất của Thiên Chúa, đó là muốn cho loài người được cứu độ. Chân lý này mang lại cho chúng ta niềm tin, hy vọng, niềm vui và ơn bình an của Chúa Kitô.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Năm mới, mỗi người phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Tết đang gần kề. Cầu chúc quý độc giả, một năm mới Quý Tỵ vui trong sức khoẻ, trẻ trong tâm hồn, khôn trong lý tưởng, trưởng thành trong… tất cả mọi lĩnh vực… khang an thịnh vượng và phát đạt thăng tiến.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hoa quả của bình an là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục.Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội. Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Tâm hồn tràn ngập bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chính mình. Tâm hồn bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không chất chứa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét bất hòa. Tâm hồn bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại cho chúng ta.

Wednesday, January 15, 2025

Tao nên về họp lớp với mày không và 7 bài thơ họa lại hay nhất

 

  •  
  •  Tao nên về họp lớp với mày không là bài thơ của tác giả Lê Thị Thu Hà đang làm mưa làm gió trên mạng xã hội. Đã có rất nhiều bài thơ họa lại đầy thú vị mà Thơ vui về cuộc sống xin giới thiệu đến bạn đọc như sau.

    may co ve hop lop voi tao khong
    Mi có về họp lớp với tau không?

     

    1. Tao nên về hợp lớp với mày không - Bài thơ gốc của Lê Thị Thu Hà


    Tao nên về họp lớp với mày không?
    Dẫu quắt quay nhớ phượng hồng, áo trắng
    Nhưng tao nghèo, đời dầm mưa dãi nắng
    Đôi vé tàu về hết hẳn tháng lương!

    Ai chẳng muốn về một thuở yêu thương?
    Ríu rít, líu lo má hường, môi thắm
    Chúng mình bây giờ khác xưa nhiều lắm
    Đâu ngang hàng như thuở tắm mưa chung?

    Mày rủ tao về tìm lại thanh xuân
    Nhưng Bá Kiến muốn ngồi cùng Nghị Quế
    Thị Nở, Chí Phèo nhìn nhau, biết thế
    Lủi thủi, ngậm ngùi bên gốc phượng xa

    Có những nỗi lòng không dễ nói ra
    Có những cuộc vui đọng buồn đáy mắt
    Có những chia ly từ khi gặp mặt
    Tao nên về họp lớp với mày không?

     

    >>>Xem thêm: 7 bài thơ mùa hè mầm non hay nhất cho bé
     

    2. Bài "Mày hãy về họp lớp với tao đi" - tác giả Đỗ Thị Kim Thoa


    Mày hãy về họp lớp với tao đi!
    Để ôn lại thuở phượng hồng áo trắng
    Đừng ngại nghèo, phận dầm mưa dãi nắng
    Vé tao bao, không sợ mất tháng lương

    Hãy về đi, về một thuở yêu thương!
    Ríu rít líu lo má hường môi thắm
    Dù bạn bè khác xưa nhiều lắm
    Vẫn ngang hàng như thuở tắm mưa chung

    Hãy về đi, về tìm lại thanh xuân!
    Không Bá Kiến, kkhông ai là Nghị Quế
    Không Thị Nở, Chí Phèo, toàn bạn bè tử tế
    Tất cả như nhau, không phân biệt, cách xa 

    Gặp lại bạn bè bao chuyện cũ kể ra
    Để những niềm vui ánh trong đáy mắt
    Khi chia tay lại hẹn ngày gặp mặt...
    Đừng ngại gì, về họp lớp, về đi!

     

    3. Bài họa lại của tác giả Hoàng Tiến Duyên


    Bạn bè giáp mặt chẳng chào
    Bây giờ họp lớp hẹn vào làm chi
    Bọn giàu khoe mẽ muốn đi
    Kẻ nghèo tiền bạc tự ti ngại ngần

    Gặp nhau tự ý chúng phân
    Quan trường với bọn doanh nhân một bàn
    Câu chuyện chúng nói thì toàn
    Xe hơi biệt thự con ngoan vợ hiền

    Bàn bên dành bọn ít tiền
    Công nhân, làm ruộng người chuyên phụ hồ
    Câu nào nói tới thầy cô
    Câu nào bày tỏ thầy trò nữa đâu

    Phong trào họp lớp xưa rồi 
    Vì thiếu ý nghĩa mọi người dần xa
    Lần đầu thì rất đông à
    Lần tiếp cứ giảm sau là thôi luôn

     

    3. Tao muốn về họp lớp của tác giả Thanh Vũ


    Tao muốn về họp lớp chúng mày ơi!
    Nhưng con nhỏ đang cần tiền đi học
    Với cha mẹ già cần tao chăm sóc
    Đồng lương thường biết chắt bóp sao đây?

    Mày bảo cứ về đi tiền tao tính
    Nhưng tao chẳng thích phiền lụy ai
    Vì tao biết đồng tiền kia khó nhọc
    Chẳng phải nó tự đến với mày

    Đành hẹn nhé! Gác lại niềm vui trẻ
    Để cày cuốc lo cơm áo gạo tiền
    Mong đến ngày đạt giấc mộng an yên
    Tao sẽ về chúng mày chờ tao nhé!

    >>>Đọc thêm: 7 bài thơ ngắn hay về triết lý cuộc sống của tác giả Thái Bá Tân

     

    4. Mày có về họp lớp không? 


    Mày có về họp lớp với tao không ?
    Phượng trổ bông đang gồng mình chào hạ 
    Bao lâu rồi mình như người xa lạ
    Như chưa từng khoác cổ, bá vai nhau

    Đừng hẹn hò nhau nơi sang trọng, lầu cao
    Cứ " khách sạn ngàn sao"- sân trường đó
    Cơm áo gạo tiền thả bay theo gió
    Còn thương nhau - uống trà đá cũng say

    Ai trên đời chẳng gặp lúc đắng cay
    Càng gió giông càng nhớ ngày đi học
    Thằng xe ôm thường rủ thằng giám đốc
    Trốn học, leo rào, trộm bắp, tắm sông ....

    Cây phượng già lại lần nữa trổ bông
    Những chiếc giỏ xe lại hồng mơ ước 
    Chở thanh xuân như chúng mình ngày trước 
    Mày có về họp lớp với tao không ?

     

    5. Tau có nên về hợp lớp với bay không?

    Tao vừa bán mấy tạ tiêu
    Định về một chuyến đánh liều đi chơi
    Nghe tin họp lớp gần rồi
    Nhưng mà tao ngại phải ngồi gần bây

    Tao thì dép xốp hai dây
    Áo quần lếch thếch cũng rầy ngồi bên
    Nhìn bây đúng bậc bề trên
    Dày đen áo véc đứng bên au đì

    Về quê họp lớp nhiều khi
    Nghe bây nói chuyện những gì ở mô
    Nỏ nghe nhắc đến Thầy Cô
    Chưởi ta nhác học bây đồ hư thân

    Đợt ni cũng sắp đến gần
    Chắc là khoảng cỡ hai tuần nữa thôi
    Tao nghe mấy đứa điện rồi
    Nhưng mà tao ngại về ngồi gần bây

    Bởi vì tau ở trong này
    Làm ăn cũng chỉ qua ngày vậy thôi
    Tao thì rất muốn về chơi
    Nhưng mà điều kiện cũng hơi ít tiền

    Tao về muốn gặp bạn hiền
    Gặp Thầy Cô giáo đã truyền cho ta
    Kiến thức trí tuệ ấy mà
    Dạy ta đạo đức thật thà siêng năng

    Hè này tao muốn về thăm
    Thầy Cô với bạn khoảng năm mười ngày
    Bây giờ tao nói thế này
    Tao về đừng ép tao say vợ buồn.

     

    6. Mày cứ về hợp lớp đi - tác giả Kiều Trọng


    Mày cứ về họp lớp với tao đi
    Để ôn lại những gì thời áo trắng
    Mày thông cảm, tính tao hay nói thẳng
    Vé tàu xe, mày cứ để tao lo.

    Tao không giầu nhưng cũng đủ để cho
    Vài cặp vé, để mày về thoải mái
    Mày cứ đi, tao xin mày đừng ngại
    Bọn chúng mình giờ chẳng khác xưa đâu!

    Mong những tiếng "Mày, Tao" khi bù khú cùng nhau
    Để nhớ mãi cái thời quần thủng đít
    Ăn trộm ổi xanh rồi vặt thêm dái mít
    Chấm muối ớt cay, chát xít cả mồm.

    Về tựu trường là mày thấy mê luôn
    Dẫu đâu đó vẫn có thằng Nghị Quế
    Có Bá Kiến khiến nhiều người vị nể
    Nhưng với tao, chúng nó chẳng là gì

    Mày cứ về họp lớp với tao đi
    Với chúng mình, cái tình là trên hết
    Nghĩ gì nhiều để cho người thêm mệt
    Ai Nở, ai Phèo, ai Kiến... mặc kệ ai !

    Về đi mày kẻo rồi lỡ nay mai
    Dẫu có muốn cũng chẳng đi nổi nữa
    Quyết định đi, xin mày đừng lần lữa
    Nhắn tài khoản ngay, tao sẽ chuyển tiền liền.

    Tao tin rằng mày sẽ được ưu tiên
    Vì sức học mày luôn là số một
    Chấp làm chi mấy anh chàng “cà rốt”
    Gặp vận may nên mới phất lên thôi

    Về ngay đi, tất cả sẵn sàng rồi
    Chỉ còn chờ một mình mày thôi đấy
    Tao nghĩ sao thì tao nói vậy
    Mày không về, tao “cát xít” mày luôn !

     

    7. Bài họa lại của tác giả Thịnh Lài


    Tuổi chúng mình nay đã già hết cả
    Có đứa giờ cất mả đã nhiều năm
    May mắn ta là người được trời ban
    Nên vẫn khoẻ để vui chơi phây búc

    Nay già rồi muốn tìm về ký ức
    Ôi bạn bè thân hữu tuổi học trò
    Hẹn gặp nhau tại bãi biển cửa lò
    Ôm lấy nhau mà cười ra nước mắt

    Những bàn tay xiết vào nhau thật chặt
    Xoá tan đi mọi hoàn cảnh giàu nghèo
    Đập bức tường đứa tiền ít tiển nhiều
    Ăn chơi hết bao nhiêu chia đều tất cả

    Không mặc cảm chung nhau cùng chia lửa
    Đêm hẹn hò tàn hẹn gặp lại năm sau
    Khi nào nghe điện thoại lại cùng nhau
    Chuyển bị tinh thần xuống cửa lò gặp mặt

    Đừng có dại mà dựa vào kẻ khác
    Làm thế là mình phụ thuộc người ta
    Không có tiền cứ bán ló bán ga
    Chớ vác mặt đi tay không thì cha của nhục

    Một năm có một lần sao không làm được 
    Mà tự ti để chúng bạn nó khinh
    Hãy tự tin tất cả tại ở mình
    Đã bạn bè không ai coi thường ai cả

    Làm một năm sao không tiền dư giả
    Vài ba trăm đổi lấy mâý tuổi vui
    Gặp lại nhau sau mấy chục năm trời
    Món quà đó nó là vô giá

    Khi mái đầu tất cả đều trắng xoá
    Biết năm sau còn gặp lại nữa không 
    Xin mọi người hãy đừng có bận lòng
    Ta gặp nhau đó là duyên là nợ

    Ai giàu lòng họ bỏ tiền tài trợ
    Đó cũng là tâm đức của con người
    Cứ nhận đi và luôn nhoẻn miệng cười
    Xiết chặt tay chúc mọi người vui vẻ

    Chết là hết tiền vàng là đồ ẻ
    Cứ sống vui sống khoẻ với cuộc đời
    Khi tay rung chân lẩy bẩy mất rồi
    Ăn không được, nói nỏ nên lời huống hồ chi họp lớp.

    >>> Xem thêm: Tết ni về họp lớp khung bay?

    Tác giả: SƯU TẦM

    Tổng số điểm của bài viết là: 145 trong 30 đánh giá

    Xếp hạng: 4.8 - 30 phiếu bầu

      Ý kiến bạn đọc

    • Lê văn Hòa
      Tất cả chỉ là thơ ca mà thôi nó rất mầu hồng nhưng thực tế nó lại không như thế , tôi đã chứng kiến nhiều cuộc họp lớp rồi tất nhiên thực tế là vui nhiều buồn ít nhưng nhưng cái sự ít này khó diễn tả bằng thơ .
        Lê văn Hòa   09/10/2023 17:49
    • PHẠM VĂN TÂN
      TAO VỚI MÀY

      Mày có biết ngày hội trường năm ấy
      Tao tìm hoài mà chẳng thấy mày đâu
      Muốn cùng nhau để nói một vài câu
      Dù năm tháng đã phai màu kí ức

      Mày biết không? Tao chờ mong và háo hức
      Đợi đến ngày được nhắc những chuyện xưa
      Trong hồn như được tắm giữa cơn mưa
      Gột sạch bụi khi dòng đời đưa đẩy

      Mày biết không ? nửa đời người rồi đấy
      Những vui buồn chả mấy cũng hư không
      Mày giàu sang , tao lận đận long đong
      Là số phận dù mong nào có được

      Mày biết không chúng nó vừa định ước
      Tháng bảy này lại được sát bên nhau
      Dù bây giờ mày đang tận trời Âu
      Nhớ ngày đó về gặp nhau mày nhé.
      PVT
        PHẠM VĂN TÂN   02/05/2023 21:08
    • PHẠM VĂN TÂN
      TAO VỚI MÀY

      Mày có biết ngày hội trường năm ấy
      Tao tìm hoài mà chẳng thấy mày đâu
      Muốn cùng nhau để nói một vài câu
      Dù năm tháng đã phai màu kí ức

      Mày biết không? Tao chờ mong và háo hức
      Đợi đến ngày được nhắc những chuyện xưa
      Trong hồn như được tắm giữa cơn mưa
      Gột sạch bụi khi dòng đời đưa đẩy

      Mày biết không ? nửa đời người rồi đấy
      Những vui buồn chả mấy cũng hư không
      Mày giàu sang , tao lận đận long đong
      Là số phận dù mong nào có được

      Mày biết không chúng nó vừa định ước
      Tháng bảy này lại được sát bên nhau
      Dù bây giờ mày đang tận trời Âu
      Nhớ ngày đó về gặp nhau mày nhé.
      PVT
        PHẠM VĂN TÂN   02/05/2023 07:02
    • linh
      CŨNG KHÔNG NÊN QUAN ĐIỂM HÓA MỌI CÁI . CON NGƯỜI MÀ CÕI TRẦN CHỈ LÀ VÔ ĐINH
      XIN HỌA VỚI CÁC THI HUYNH THI TỶ BÀI THƠ
      NHÂN DỊP MÌNH CŨNG ĐANG CHUẨN BỊ 40 NĂM HỘI LỚP, HỘI KHÓA
      HÃY CỨ VỀ HỌP LỚP CHÚNG MÀY ƠI

      Hãy cứ về họp lớp chúng mày ơi
      Mọi chuyện khác cứ mặc trời đất hết
      Bởi mưu sinh có ai không lắm việc
      Về bên nhau một chút thắm tình người

      Hãy cứ về họp lớp chúng mày ơi
      Bao nhiêu năm đã xa rời trường lớp
      Quỹ thời gian cũng đã gần cạn kiệt
      Còn sức đâu mà tính chuyện thiệt hơn

      Hãy cứ về họp lớp chúng mày ơi
      Đừng biện hộ lý do rồi lẩn trốn
      Với “con” người có ai không thiếu thốn
      Suy nghĩ chi cho thêm tốn Cờ - lo

      Hãy cứ về họp lớp chúng mày ơi
      Bởi mưu sinh có ai không bươn chải
      Là bạn bè có chi mà ái ngại
      Hãy bên nhau thoải mái thắm tình người

      Hãy cứ về họp lớp chúng mày ơi
      Bởi không biết ngày mai rồi có gặp
      Cõi trần ai một ngày kia nhắm mắt
      Phú quý công danh tiền bạc cũng bằng thừa

      Hãy cứ về họp lớp chúng mày ơi
      Mọi so sánh tao thấy đều khập khểnh
      Kiếp trần gian mọi cái là vô định
      Về bên nhau đừng tính chuyện hơn thua

      Hồng Lĩnh
      Đăk Lăk 05/3/2023
        linh   23/02/2023 10:32
    • Nguyễn Chí Anh
      Lê Hùng

      TAO SẼ VỀ HỌP LỚP
      Thơ- Chí Anh-Phú Tho

      Mấy hôm nay nhận lời mời họp lớp
      Tao cứ lăn tăn liệu có nên về?
      Đã nhiều năm rồi xa bạn, xa quê
      Về hay không chỉ mình tao tự hiểu

      Bao lâu nay, tiền trong nhà còn thiếu
      Lặn lội ngày đêm chẳng thấy dư thừa
      Nhưng nghĩ được về sống lại tuổi thơ
      Chỉ thế thôi là tao sung sướng nhất

      Tất cả chúng mình đã đều thất thập
      Đỗ Phủ bảo rồi: Cánh cổ lai hi
      Giỏi lắm chỉ còn vài bữa thôi thì...
      Về với tuổi thơ, đây là cơ hội

      Nhớ lắm chứ những năm còn đi học
      Lũ chúng mình thật sự quá vô tư
      Chạm tay bạn gái mặt đã đỏ nhừ
      Nói chi động đến làn môi, mái tóc

      Giận dỗi nhau nhiều khi còn oà khóc
      Hoa phượng hái rồi ngại cóc dám đưa
      Lắm lúc đi đường gặp phải trời mưa
      Tàu lá cọ chẳng dám đưa nhau đội

      Tao phải về, để gặp còn xin lỗi
      Con bé ngày xưa nó cứ nhìn tao
      Đúng là mình ngu chỉ chuyện tầm phào
      Mãi sau này về già tao mới biết

      So với chúng mày, đời tao dẫu thiệt
      Kệ bà nó đi chẳng tiếc làm gì
      Trời đã định rồi, hơn thiệt mà chi
      Về để gặp những thằng cùng một thuở

      Mày cậy chức to nếu mày không nhớ
      Mặc kệ chúng tao, mày đứng một bên
      Quan chỉ nhất thời, mày chớ có quên
      Dân như chúng tao mới là vạn đại

      Những đứa nào nghèo xin đừng có ngại
      Hãy trở về để gặp lại bạn bè
      Gặp thầy cô và đứng dưới luỹ tre
      Để mình được cùng nhau nghe gió hát

      Cho đến tuổi này: chức, quyền, tiền, đất...
      Dù ít hay nhiều đừng đứa nào khoe
      Kiếm bằng mồ hôi còn thấy dễ nghe
      Còn cách khác thì thôi cho đỡ nhục

      Dân gian có câu đời người có lúc
      Đừng mặc cảm nha, mấy đứa ít tiền
      Hãy cùng tao về với tuổi thần tiên
      Sắp xuống lỗ rồi, mày tao cho sướng

      Phú Lạc Phố , 19/7/2022
        Nguyễn Chí Anh   27/12/2022 17:28
      • @Nguyễn Chí TAO VỚI MÀY

        Mày có biết ngày hội trường năm ấy
        Tao tìm hoài mà chẳng thấy mày đâu
        Muốn cùng nhau để nói một vài câu
        Dù năm tháng đã phai màu kí ức

        Mày biết không? Tao chờ mong và háo hức
        Đợi đến ngày được nhắc những chuyện xưa
        Trong hồn như được tắm giữa cơn mưa
        Gột sạch bụi khi dòng đời đưa đẩy

        Mày biết không ? nửa đời người rồi đấy
        Những vui buồn chả mấy cũng hư không
        Mày giàu sang , tao lận đận long đong
        Là số phận dù mong nào có được

        Mày biết không chúng nó vừa định ước
        Tháng bảy này lại được sát bên nhau
        Dù bây giờ mày đang tận trời Âu
        Nhớ ngày đó về gặp nhau mày nhé.
        PVT

    WORLD WORLD