Tuesday, November 28, 2023

“THÁO GIẦY”

Tôi nhớ lại một câu truyện rất lý thú về sự tích đôi giày. Truyện kể rằng ngày xưa có một ông vua, sống rất xa xỉ. Mỗi khi đến đâu, ông bắt dân chúng nơi ấy phải trải thảm nhung trên tất cả những con đường ông đi qua. Càng được đón tiếp long trọng, ông càng thích đi; và ông càng đi, người ta càng phải trải nhiều thảm nhung cho ông bước lên. Cho đến một ngày, người ta không kịp sản xuất nhung để lót đường cho ông vua. Điều này làm ông tức giận và ra lệnh rằng ông đến đâu mà không có thảm nhung lót đường, cả dân vùng ấy sẽ bị giết chết hết. Thế nhưng đã có một người đến xin yết kiến vua, ông ta cam đoan rằng nếu vua theo ý ông, vua đi đâu thảm nhung cũng có sẵn mà không phải huy động một ai cả. Vua bằng lòng, và ông nọ dùng hai mảnh nhung nho nhỏ, khâu thành một đôi giày nhung rồi mời vua xỏ chân vào. Thế là từ đó, vua đi đâu ''thảm nhung'' đi theo đến đấy. Kỹ nghệ làm giày từ đó dần dần thành hình và phát triển.

 VĂN HÓA ỨNG XỬ NHÀ GIÁO - ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ

Câu truyện này khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy có liên hệ tới tính chất của những đôi giày. Đôi giày tượng trưng cho sự giàu có, hay ít ra cũng là đủ ăn đủ mặc, đôi giày làm cho người ta trở nên chững chạc, lịch sự. Đi đến nơi nào có vẻ quan trọng một chút, người ta xỏ chân vào đôi giày, tự nhiên trông có vẻ tươm tất ngay. Bà phu nhân của cố tổng thống Phi Luật Tân Marcos có tới vài trăm đôi giầy đắt giá. Tôi không biết có ai trong chúng ta có tới vài trăm đôi giày như vậy không, nhưng chừng vài chục đôi thì tôi cũng đã biết có người. Có những người ham thích mua giày, dư tiền một chút, họ đi sắm giày. Những đôi kiểu mới, họ mang vào chân, ngắm nghía rồi mua đem về, dù rằng những đôi cũ còn rất tốt, lại có những đôi họ chưa xỏ chân vào lần thứ hai. Chính vì có nhiều người ham thích mua giày, đóng giày mà kỹ nghệ sản xuất giày phát triển rất mạnh, với nhiều hãng giày nổi tiếng. Có những đôi giày trị giá mấy trăm Mỹ kim, trong khi một đôi dép dùng hằng ngày trong nhà có thể chỉ phải mua với giá hai, ba đồng.

Đôi giày làm nên ranh giới của người no đủ và người nghèo đói. Đôi giày cũng ... làm nên ranh giới của người tự do và người nô lệ. Ngày xưa, trong một số xã hội nào đó chỉ những người tự do mới được quyền đi giày, còn người nô lệ phải đi chân đất. Dụ ngôn ''đứa con hoang đàng'' trong Phúc Âm cũng có hình ảnh của đôi giày. Khi đứa con hoang trở về, nghèo đói, rách rưới qùy xuống chân cha nói lời tạ tội và chỉ mong cha cho trở về, nhận làm kẻ hầu người hạ trong nhà chứ không dám mơ được nhận làm con như trước; người cha nhân lành đã đỡ con dậy, gọi gia nhân đem áo cho mặc, nhẫn cho đeo, giày cho đi. Đôi giày ấy thay cho lời người cha, nói với người con rằng: ''Con là con cha, là người tự do, con không phải là kẻ ăn người ở, không phải là hạng nô lệ trong nhà này.''

Nhưng đôi giày cũng là vật tượng trưng chơ sự gò bó. Đôi giày trở nên nỗi cực hình đối với những ai thích cho đôi chân mình được thoải mái. Tôi vốn thích đi dép hoặc xăng đan ''cho nó mát". Ngày đầu tiên đi dạy học, tôi cũng định lê đôi dép vào trong lớp, nhưng mẹ tôi đã đe: ''Nếu con không chịu mua giày và không chịu đi giày, mẹ không cho con tới trường dạy học.'' Tôi hoảng quá, đành phải đi sắm giày mà trong lòng lấy làm đau khổ vô cùng. Bây giờ, tôi vẫn có thói quen đi dép hay đi xăng đan. Và đang khi có đôi chân thoải mái như thế, tôi nhìn những người bạn phải đi giày suốt từ sáng đến tối mà thương cho họ. Nhất là những cô phải xỏ chân vào đôi giày cao gót và để đôi giày ấy đeo cứng chân mình, dù đi, dù đứng, dù ngồi; chắc là bí bức, gò bó lắm. Nhưng nói vậy thôi, có nhiều người sẵn sàng chịu sự gò bó để cảm thấy mình đẹp và được khen là đẹp. Tuy nhiên, tôi cũng thấy có nhiều người, nhất là những người trẻ, bước đi trên đường phố bằng những đôi chân trần không giày dép. Những người trẻ này có lẽ không thích sự gò bó, dù là sự gò bó của đôi giày hay sự gò bó của những luật lệ, định chế xã hội.

Có một khoa nhìn giày để đoán ra tính nết người đi đôi giày đó. Người ta nhìn đôi giày mòn ở mũi hay ở đế, mòn phía trong nhiều hay mòn phía ngoài nhiều, rồi từ đó đoán ra người đi đôi giày ấy tính hướng nội hay hướng ngoại, bình tĩnh hay hấp tấp, cương quyết hay e dè v,v... Tôi không biết những điều ước đoán ấy đúng, sai ra sao, nhưng từ lâu tôi vốn thích ngắm những đôi giày mòn vẹt hơn là nhìn những đôi giày bóng loáng chưa đụng đất trong tiệm bán giày. Giày đẹp mấy mà chưa dùng đến thì cũng chưa đem lại chút lợi ích gì cho con người. Giày càng mòn, càng vẹt bao nhiêu, càng chứng tỏ nó đã giúp cho con người di chuyển nhiều bấy nhiêu. Đẹp mà không giúp ích cho đời, cũng không quí bằng dù tàn tạ nhưng đã đem lại ích lợi cho đời sống con người.

 Chính vì thế đã có người rất quý trọng đôi giày mòn, vẹt của mình. Người ta kể rằng một tu viện nọ tổ chức một cuộc tĩnh tâm. Cuối ngày, cha tu viện trưởng nói với mọi người để lên bàn vật mình cho là quý nhất. Các tu sĩ lần lượt để lên bàn những báu vật của mình. Người thì đặt lên một cây thánh giá bằng vàng, người khác là một cuốn thánh kinh đóng bìa da công phu, người khác nữa là một tràng hạt bằng bạc... Đến lần vị tu sĩ kia, ông thản nhiên cúi xuống tháo đôi giày cũ kỹ, mòn vẹt của ông và trịnh trọng đặt lên bàn. Mọi người ồn ào, bất mãn, người ta cho rằng vị tu sĩ kia ngạo mạn và bất kính đối với người khác và đối với những báu vật của họ. Tu viện trưởng ra lệnh cho vị tu sĩ kia giải thích tại sao lại cho đôi giày cũ kỹ bụi bặm kia là vật quí nhất, vị tu sĩ trả lời: ''Vì chính nhờ nó, con đã đem được Tin Mừng của Chúa Ki tô đến biết bao con người ở những miền đất xa xôi”. Câu truyện này khiến tôi liên tưởng đến lời của tiên tri Isaia: ''Đẹp thay bước chân người đi gieo rắc Tin Mừng.'' (Is 52, 7)

 Thầy giáo trẻ xung phong lên biên giới dạy học

 Ai từng đi giày cũng có một đôi giày mình ưng ý nhất, đôi giày ấy đi vào vừa vặn, bước đi thật êm, nó không cọ xát khiến đôi chân đau bỏng, nó không bó đôi chân lại khiến chân bị tê buốt, nó cũng không lỏng lẻo khiến cho đôi chân muốn tuột ra ngoài. Khi có một đôi giày ưng ý rồi, ta không thích đi đôi giày khác, nhất là không thích dùng giày của người khác. Đôi giày khi đó trở thành vật biểu tượng cho sở thích, cho bản tính của mình. Có lẽ chính vì thế mà lâu nay người ta có thành ngữ ''đi giày nhiều người''. Thành ngữ này có nghĩa là khi làm việc, ta phải chiều theo tính nết của quá nhiều người thì việc mới thành tựu được. Phải ''đi giày nhiều người'' là một tình trạng rất khổ tâm của những người muốn hoạt động hữu hiệu cho một mục tiêu cao đẹp, mà cứ phải chiều ý hết người này tới người khác. Mặt khác, ''đi giày nhiều người '' cũng là câu chê bai dành cho những ai không dám tự quyết không dám can đảm dấn thân, bất chấp những nhân sự ''cản mũi kỳ đà'', mà cứ luôn luôn phải làm theo ý người này, người nọ.

 Mách bạn cách F5 giày cũ đơn giản mà cực đẹp

Dịp lễ Phục Sinh vừa qua, tôi được dịp ''tháo giày'' một cách hết sức thoải mái. Chuyện ''tháo giày'' của tôi không liên quan gì đến việc các viên chức đóng vai mười hai tông đồ, tháo giày ra cho vị linh mục chủ tế, bắt chước Chúa Giêsu, rửa chân cho mình. Chuyện ''tháo giày” của tôi hoàn toàn khác. Tôi được gọi đến dự một cuộc tĩnh tâm của giới trẻ. Sau những nghi thức và những bài giảng, đêm đã về khuya. Đây là thời điểm thuận tiện nhất để những người trẻ ngồi lại với nhau, tâm sự về những thao thức, những ước vọng, những suy tư của mình. Để tạo bầu không khí thân mật, vị linh mục phụ trách kêu gọi mọi người ngồi xuống đất bên nhau thành vòng tròn, thay vì ngồi trên ghế. Muốn ai cũng có thể ngồi thoải mái, vị linh mục xin mọi người tháo giày ra trước khi ngồi. Khi được lệnh ''tháo giày'', tôi là người sung sướng nhất. Lúc nào tôi cũng mong đợi chân mình được tự do! Vừa tháo giày, tôi vừa quan sát những người trẻ chung quanh. Một số tháo giày ra ngay; một số khác còn ngần ngừ, như còn e dè, nuối tiếc gì đó. Nhưng rồi cuối cùng, ai cũng tháo giày ra hết. Với đôi chân thoải mái, mọi người ngồi xuống đất, vòng tròn thu hẹp dần, thu hẹp dần, cho đến khi vai người này có thể chạm được vai người khác, đầu người nọ có thể chụm vào đầu người kia. Và họ bắt đầu chia sẻ với nhau về những ưu tư, khát vọng, mơ ước, hạnh phúc, đau khổ của mình. Đúng lúc ấy tôi nghĩ tới đôi giầy mọi người vừa tháo khỏi chân. Đôi giày, nhìn dưới một khía cạnh nào đó, chính là bản chất riêng của mỗi người. Để có thể ngồi sát bên nhau, vai chạm vai, đầu chụm đầu, nghe được nơi nhau những lời chia sẻ thân tình, chúng tôi phải tháo đôi giày, phải cởi bỏ bản chất riêng của mình trước đã, rồi mới có thể hòa đồng trong một bầu khí chung, một tâm tình chung. Những giọt lệ nơi khóe mắt tôi ứa ra một cách kín đáo.

 Tôi ước mong trong cuộc sống, tôi và các bạn tôi biết nhận thức rằng: rất nhiều lúc, chúng tôi phải tập ''tháo giày" tập cởi bỏ bản chất riêng để cùng nhau theo đuổi một mục đích chung. Cùng nhau đi chân trần trên đường hướng về lý tưởng, có lẽ thích thú hơn lộp cộp với đôi giày để bước những bước độc hành.

Tác giả Quyên Di

Nhà Văn, Giáo Sư Ngôn Ngữ

và Văn Hóa Việt Nam đại học UCLA

 

 

BÀI GIẢNG LỄ AN TÁNG CHO MỘT NGƯỜI TỰ TỬ

 

 Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (3,16-17)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ."

 Bài giảng

Quý ông bà và anh chị em thân mến,

Anh T. vừa đột ngột rời xa chúng ta khi vẫn còn rất trẻ. Trước sự ra đi của anh, chúng ta cảm thấy thương anh và đau xót. Và có lẽ có người trong chúng ta cũng âm thầm hỏi anh: Sao anh lại dại dột như vậy? Sao anh lại có quyết định nông nổi như vậy? Mọi chuyện đều có thể giải quyết, sao anh lại phải chọn con đường cụt này?... Nhưng khi hỏi anh như vậy, có lẽ chúng ta cũng tự hỏi, phải chăng mình đã chưa quan tâm đủ để nhìn thấy những thay đổi nơi anh, hay mình chưa đủ yêu thương để nhận ra những dấu hiệu bất ổn của anh, hay phải chăng mình quá coi nhẹ những khó khăn của anh và để anh một mình tìm cách giải quyết?...

Những câu hỏi này khiến chúng ta cảm thấy đau và nặng nề. Nhưng dù chúng ta có hỏi mình bao nhiêu lần, dù có suy đi nghĩ lại, chúng ta cũng không tìm thấy câu trả lời thỏa đáng. Bởi sẽ không có câu trả lời thỏa đáng nào cả. Chúng ta đang phải trải nghiệm sự nặng nề và buồn bã của biến cố này mà không tìm được câu trả lời cho những câu hỏi của mình.

Anh T. đã chọn cái chết, và chúng ta phải tôn trọng lựa chọn này của anh, dù cho sự lựa chọn đó không phù hợp với quan điểm hay quan niệm sống của chúng ta. Cái chết của anh đẩy chúng ta đối diện với mầu nhiệm về con người, với những điều kín nhiệm mà không ai trong chúng ta có thể thấu hiểu hay chạm đến được. Vì thế, chúng ta không cố gắng để giải thích những điều chúng ta không thể hiểu, cũng không nhất thiết phải lý giải hành động của anh. Điều duy nhất chúng ta có thể làm và phải làm là cầu nguyện và phó thác anh cho lòng thương xót của Thiên Chúa.

Chúng ta không nên xét đoán và cũng không có quyền phán xét quyết định của anh T., vì chúng ta không biết những buồn sầu và sợ hãi, những đau khổ và tuyệt vọng của anh. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể phán xét con người một cách công bằng, vì chỉ có Chúa mới biết rõ từng người. Chỉ có Chúa mới thấu tỏ được tâm lòng của mỗi người (Gr 17,10). Và chỉ có Chúa mới yêu chúng ta đủ và nhiều để phán xét chúng ta.

Vì vậy thay vì đoán già đoán non, thay vì đưa ra một kết luận da trên sự hiểu biết vốn rất hạn hẹp của mình, chúng ta hãy để Chúa phán xét anh. Và chúng ta có quyền tin tưởng và hy vọng vào sự phán xét của Chúa, vì Chúa xét xử chúng ta theo lòng thương xót của Người. Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta niềm tin này: Thiên Chúa Cha đã sai Con của Người đến với chúng ta không phải để loan báo cái chết nhưng để loan báo sự tha thứ và sự sống. Điều tưởng chừng như bị mất đi, Chúa lại cứu vớt nó. Nơi nào có bóng tối, Chúa đem ánh sáng đến. Nơi nào có sự chết, Chúa đến gieo sự sống. Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa sai con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.

Chúng ta có dám tin rằng ơn cứu độ dành cho anh Tâm vẫn nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa không? Chúng ta có dám tin rằng, hôm nay, chính lúc này, Chúa Giêsu cũng đang nhìn anh với tình yêu và lòng thương xót như Người đã từng nhìn tất cả những người bất hạnh, những người đau khổ, những người tuyệt vọng khi Người đi loan báo Tin Mừng cứu độ ở trần gian không? Chỉ có Thiên Chúa mới thấy tất cả những gì là tốt, là rộng lượng từ tấm lòng của anh, những gì là giá trị trong cuộc đời của anh.

Nếu dám tin, chúng ta sẽ không còn nghi ngờ tình yêu của Chúa dành cho tất cả những người đã đau khổ đến mức không thể sống được nữa. Đối với tất cả những người chết, Chúa là Thiên Chúa của sự sống.

Dĩ nhiên, tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa không phải để chúng ta cố chấp sống trong tình trạng tội lỗi hoặc coi nhẹ sự hoán cải. Tình yêu đích thực không bao giờ là cớ để chúng ta phạm tội. Nhưng tin vào tình yêu của Chúa là dám để cho Chúa chạm vào nỗi thống khổ của chúng ta, dám để Chúa kéo chúng ta chỗi dậy từ những yếu đuối, đứng lên từ đống đổ nát của tâm hồn mình và tiếp tục bước theo Người.

Anh T. đã rời xa chúng ta nơi trần gian. Nhưng chính cái chết, và cả cách chết của anh, lại trở thành sợi dây nối kết chúng ta, những người đang sống. Bởi qua cái chết của mình, có lẽ anh T. muốn mời gọi chúng ta hãy biết sống yêu thương nhau hơn, lắng nghe nhau nhiều hơn, dành thời gian cho nhau và nâng đỡ nhau, nhất là trong những lúc khó khăn, đau khổ. Thông điệp mà anh muốn gởi đến chúng ta có lẽ là khát vọng về một thế giới của sự sống và tình thương, nơi mà không một ai bị chối từ, nơi mà mọi người đều tìm thấy cho mình một sự ấm áp của tình người, và nơi mà niềm hy vọng không bao giờ bị đánh mất.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa tiếp đón người con, người anh em, người bạn của chúng ta vào trong Nước Hằng Sống, với lòng Thương Xót vô biên của Người. Và cũng xin Chúa cho chúng ta giữ mãi được niềm tin, niềm hy vọng vào tình yêu của Chúa để chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho nhau và sống yêu thương nhau. Amen.

Tác giả:  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

WORLD WORLD