Friday, May 23, 2025

Hương trong kinh Thánh và ý nghĩa sử dụng trầm hương trong Công giáo

 

Hương trong kinh Thánh và ý nghĩa sử dụng trầm hương trong Công giáo

  • Bảo Trầm
  • xonghuong 1

(Bảo Trầm) Nhân dịp lễ Phục sinh của đồng bào Công giáo năm nay (17/4), Bảo Trầm giới thiệu văn hóa sử dụng trầm hương trong Công giáo. Được biết, bên cạnh lễ Giáng sinh (Noel) mà cả thế giới đều biết thì Lễ Phục sinh là một trong 2 dịp lễ quan trọng nhất trong năm của Công giáo, thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 hằng năm (tùy năm). Đây là dịp tưởng niệm ngày Chúa Giê su chịu chết và sống lại.

Cùng với lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh là dịp lễ quan trọng của người theo Công giáo. Vào dịp này, các nhà thờ không trang hoàng như Giáng sinh nhưng có nhiều hoạt động tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê su.
  1. HƯƠNG ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG KINH THÁNH

Thời Cựu ước, Giavê Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê xây một bàn thờ đặc biệt dành riêng để dâng hương thờ phượng Ngài. Sách Xuất Hành chương 30 ghi lại rằng:

“Ngươi sẽ làm một bàn thờ để đốt hương; ngươi sẽ làm bằng gỗ keo. Hương án đó sẽ dài nửa thước, rộng nửa thước – nghĩa là hình vuông – và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án… Trên đó, Aharon sẽ đốt hương thơm: sáng nào, ông ấy cũng đốt hương thơm khi chuẩn bị dầu đèn, và lúc Aharon thắp đèn lên vào chập tối, ông ấy cũng sẽ đốt hương thơm: đó là hương vĩnh viễn dâng trước nhan Đức Chúa qua mọi thế hệ của các ngươi” (Xh 30, 1-2, 7-8).

Hương được đặt trên lễ vật toàn thiêu tại bàn thờ như là việc dâng hy lễ tưởng niệm. “hương thơm êm dịu dâng lên Chúa” (x. Lv 2). Sau này, trong đền thờ Giêrusalem, vào ngày lễ xá tội vị thượng tế vén tấm màn ngăn đi vào nơi cực thánh để đốt cháy 2 nắm hương bột có mùi thơm. Lúc bấy giờ khói hương dày đặc và hương thơm tỏa khắp nơi cực thánh trong đó có đặt hòm giao ước (x. Lv 16, 12-13). Tại Israel, người ta xông hương cho những người, những đồ vật và những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa duy nhất. Tất cả họ tham gia vào việc thờ phượng Thiên Chúa, họ được mời gọi loan truyền hương thơm tinh thần êm dịu: “Các ngươi hãy nghe, các con trai thánh … các ngươi hãy tỏa như hương trầm thơm tho tốt lành” (Hc 39,13-14).

Xông hương buộc thực hiện trong tôn giáo của người Israele nhưng các ý nghĩa biểu tượng thì xuất hiện muộn hơn, kể cả trong phụng vụ Kitô giáo, trước hết là trong giáo hội Đông phương.

Trong Tin Mừng Matthêu, đã miêu tả lòng sùng kính đối với Chúa Giêsu Hài Đồng của các đạo sĩ, người ta gọi họ là 3 vua. Họ đến từ vùng đất Đông phương xa xôi để gặp vua dân Do Thái. Họ dâng cho Ngài những thứ quý giá đựng trong hộp, là: vàng, mộc dược và nhũ hương (x. Mt 2, 11).

Thánh Phaolô huấn dụ tín hữu Kitô rằng: “Tôi nài van anh em, trong tình thương của Thiên Chúa: hãy hiến dâng toàn thân và đời sống anh em như hy lễ thánh thiện, thơm tho lên cùng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Theo thánh Phaolô, tất cả các tín hữu, với chứng tá đức tin của mình họ làm lan tỏa trên thế giới hương thơm của Đức Kitô và dâng lên Chúa Cha “trong hiến lễ thơm tho diệu vợi” (x. 2 Cor 2,14-16; Ef 5,2).

  1. Ý NGHĨA THẦN HỌC

Thánh vịnh 142 câu 2 nói việc xông hương là dấu chỉ diễn đạt sự cung kính và như lời nguyện cầu dâng lên Thiên Chúa.

“Ước chi lời con nguyện như hương trầm bay toả trước Thánh Nhan, và tay con giơ lên được chấp nhận như của lễ ban chiều” (Tv 141, 2).

Con người nối kết với Thiên Chúa và thờ phượng Đấng Tối Cao qua các lễ nghi. Các lễ nghi đó được diễn đạt và thể hiện qua các biểu tượng, những dấu hiệu, những cử chỉ vật lý trong lãnh vực của con người. Việc thờ phượng Thiên Chúa được diễn đạt không chỉ trong tâm hồn nhưng cả ngoài thể xác. Mùi thơm êm dịu của trầm hương, chắp tay, cúi đầu… chúng làm cho người ta cảm nhận và dễ dàng đi vào bầu khí của mầu nhiệm thánh đang cử hành.

Lý thuyết của việc xông hương có một dấu hiệu đặc thù hy tế như của lễ toàn thiêu. Đốt hương, xông hương giống như việc đốt cháy một vật quý giá với ý hướng dâng hiến nó cho Thiên Chúa. Khói hương trầm thơm bay lên gợi lại không gian đền thờ Giêrusalem nơi người ta thờ phượng Giavê Thiên Chúa, với Ngài người ta dâng tế vật toàn thiêu cùng với hương thơm êm ái. Ý nghĩa này hiển nhiên vẫn còn đầy đủ nội dung trong nghi thức dâng hiến lễ vật và xông hương trong thánh lễ.

  1. VÀI NÉT LỊCH SỬ VỀ VIỆC DÙNG HƯƠNG TRONG PHỤNG VỤ

Tại dân ngoại, hương được đốt cháy trước những tượng ảnh của các vị thần hay trước hoàng đế để nhìn nhận và tôn kính họ. Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, đông đảo các tín hữu bị tử đạo vì đã từ chối thực hiện những cử chỉ sùng bái hoặc xông hương cho hoàng đế hay ngẫu tượng. Những sức mạnh lôi cuốn không hay từ những cuộc bách hại đạo hay những cuộc bắt bớ các tín hữu đi lưu đày, để phân biệt giữa Kitô giáo và dân ngoại, việc dùng hương trong phụng vụ bị bãi bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên việc dùng hương được phục hồi sau khi hoàng đế Constantinô ra chỉ dụ Milanô năm 313 công nhận đạo Kitô hợp pháp, chấm dứt các cuộc thảm sát các Kitô hữu trong toàn đế quốc và bắt đầu sự suy tàn của dân ngoại. Tại Rôma người ta không dùng bình hương, đỉnh hương hay cây hương như ở Đông phương mà sử dụng một ít hương trong một cái hộp thích hợp để tỏa mùi thơm.

Thế kỷ thứ IV (thời kỳ vàng của phụng vụ), những cuộc hành hương Egeria nổi tiếng đến viếng Mộ thánh tại Giêrusalem, đã mô tả sự phát triển của phụng vụ. Mỗi khi cộng đoàn “hát 3 thánh vịnh thì 3 lần dùng bình hương xông bên trong Mộ thánh, và như thế tất cả vương cung thánh đường Mộ thánh tràn đầy mùi hương thơm” (Nhật Ký Hành Hương 24, 10). Việc xông hương trọng thể nơi Đức Kitô được an táng và đã phục sinh đã duy trì và về sau được ghi vào trong sách nghi lễ của các giám mục. Tập tục xông hương nơi Mộ thánh gợi lại hình ảnh mấy phụ nữ mang dầu thơm đến để ướp xác Chúa nhưng trái lại họ đã được thiên thần báo cho hay Chúa đã Phục sinh vinh quang (x. Mc 1,6).

Việc xông hương lễ vật được đưa vào trong phụng vụ Carôlingia (thời Charlemagne) từ thế kỷ thứ IX và thực sự đưa vào phụng vụ Rôma từ thế kỷ XI.

Trong các Sách lễ nghi Rôma cổ có quy tắc chặt chẽ, ấn định việc dùng hương trong các thánh lễ, đặc biệt trong các lễ kính và lễ trọng không thể thiếu việc xông hương. Nhưng trong Sách lễ “Missale Romanum” các ấn bản được ban hành sau Công đồng chung Vaticanô II thì việc dùng hương được mở rộng và tự do. Việc mở rộng và tự do dùng hương trong phụng vụ đã có giai đoạn người ta hiểu và áp dụng chưa đúng với tinh thần của Công Đồng do việc dịch những ẩn ý của các chỉ dẫn chữ đỏ trong sách phụng vụ.

Ví dụ số 276 trong phần Tổng tắc lễ qui Rôma: Việc sử dụng hương trong tiếng latinh là ad libitum, trong các Sách lễ bằng tiếng bản xứ người ta đã dịch thuật ngữ này với nhiều ý khác nhau:

Trong Sách lễ Rôma bản văn tiếng Việt dịch theo bản Missale Romanum 1975 trang 57 số 235 quy chế tổng quát, thì dịch là “có thể tùy nghi dùng hương” trong bất cứ hình thức thánh lễ nào. Trong Sách lễ Rôma bản văn tiếng anh dịch theo bản Missale Romanum 1970 trang lviii (58) số 235 quy chế tổng quát, thì dùng từ “optional” nghĩa là việc dùng hương thì nhiệm ý không bắt buộc trong bất cứ hình thức thánh lễ nào. Trong Sách lễ Rôma bằng tiếng Ý bản dịch của Hội đồng Giám mục Ý (Conferenza Episcopale Italiana: CEI) thì dùng từ “a piacere” có nghĩa là tùy thích dùng hương.

Và như vậy dùng hương trong tất cả các thánh lễ đã trở nên một cách đơn giản tùy nghi không bắt buộc. Với các nội dung dịch như thế nó đã in sâu vào trong tâm thức của hàng giáo sĩ, việc dùng hương trong thánh lễ là tùy ý với ý nghĩa là đừng làm. Thậm chí có người còn cho rằng đó là việc hào nhoáng vô ích.

Trái lại Ad libitum, thành ngữ latinh này có nghĩa chính xác là thích, tùy ý. Nghĩa khác là không bắt buộc, nhiệm ý, không đòi hỏi (đều có nghĩa là không bắt buộc). Đó là tùy ý trong nghĩa tích cực, nghĩa là người ta có quyền dùng nó, nhưng nghĩa này trong tiếng Việt, tiếng Anh hay nhiều tiếng khác không diễn đạt để hiểu thấu được.

  1. NGHI THỨC XÔNG HƯƠNG TRONG THÁNH LỄ

Sách lễ Rôma, được thực hiện theo nghị quyết của thánh Công đồng chung Vaticanô II, được Đức Thánh Cha Phaolô VI chuẩn nhận ấn bản mẫu năm 1970, tu chính và tái bản lần II năm 1975. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận những sửa đổi và chuẩn nhận ấn bản mẫu năm 2002 tái bản lần III. (Nhiều cộng đoàn người Việt tại hải ngoại hay tại Việt Nam khi cử hành thánh lễ vẫn còn dùng Sách lễ Rôma dịch theo ấn bản 1975). Số 276 và 277 trong Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma năm 2002 quy định nghi thức sử dụng hương trong thánh lễ như sau:

XÔNG HƯƠNG KHI NÀO ?

Số 276 Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma

Việc xông hương có thể tùy nghi sử dụng trong bất cứ nghi thức thánh lễ nào. Có thể sử dụng trong các thánh lễ nhớ buộc hay lễ nhớ tùy và cả trong các thánh lễ thường ngày.

– Trong khi đi rước ra bàn thờ.

– Lúc đầu thánh lễ xông hương thánh giá và bàn thờ.

– Khi đi rước sách Tin Mừng và trước khi công bố Tin Mừng.

– Khi bánh rượu đặt trên bàn thờ, xông hương của lễ, thánh giá, bàn thờ, linh mục chủ tế (linh mục đồng tế nếu có) và dân chúng.

– Khi giơ Mình Thánh và Chén Thánh lên sau truyền phép.

XÔNG HƯƠNG THẾ NÀO ?

Số 277 Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma

Linh mục khi bỏ hương vào bình thì thinh lặng và làm phép bằng một dấu thánh giá.

Người xông hương, trước và sau khi xông thì cúi đầu đối với những người, những sự vật được xông hương, nhưng không cúi đầu đối với bàn thờ và của lễ để hiến tế trong thánh lễ.

Ba lần đưa bình hương lên xông đối với:

– Mình Thánh Chúa

– Tượng chịu nạn (Thánh Giá).

– Các tượng hay ảnh Chúa khi trưng bày công khai để tôn kính

– Những của lễ trên bàn thờ để hiến tế trong thánh lễ.

– Thánh giá trên bàn thờ

– Sách Tin Mừng

– Nến Phục sinh

– Linh mục

– Cộng đoàn.

Hai lần đưa bình hương lên xông đối với:

– Các di tích của các thánh (ví dụ: di hài các thánh…)

– Các ảnh, tượng các thánh được đặt công khai tôn kính.

Và chỉ xông một lần vào lúc bắt đầu cử hành thánh lễ, tức là khi xông hương bàn thờ.

* Đối với bàn thờ thì xông đơn, theo cách thức sau:

– Nếu bàn thờ tách rời với vách tường thì linh mục xông xung quanh bàn thờ.

– Nếu bàn thờ một mặt gắn liền hay sát với vách tường thì linh mục xông bên phải rồi xông bên trái bàn thờ.

* Đối với tượng chịu nạn: Nếu tượng chịu nạn được đặt trên bàn thờ hay kế cận bàn thờ, thì xông tượng chịu nạn trước khi xông bàn thờ, nếu không thì sẽ xông tượng chịu nạn khi linh mục đi ngang qua.

Linh mục xông hương những lễ vật trước việc xông hương tượng chịu nạn và bàn thờ với ba cú, mỗi cú hai lắc; hoặc xông với việc lắc bình hương theo hình thánh giá và hình tròn trên lễ vật.

Lm. Giuse Thiện Tĩnh
(Theo Bản tin Hiệp Thông)

HỌC HỎI PHÚC ÂM - CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH NĂM C

                                    

Ga 14,23-29

1. Bối cảnh

Đoạn Ga 14,23-29 nằm trong bài diễn từ ly biệt của Đức Giêsu (Ga 13–17), khi Người chuẩn bị đi vào cuộc Thương Khó. Ở đây, Chúa “ra đi” không để bỏ rơi, nhưng để ở lại cách sâu hơn: qua tình yêu, sự vâng phục, sự hiện diện của Chúa Cha, và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

2. Phân tích câu–cụm đoạn

- Câu 23 – Tình yêu dẫn đến sự hiện diện của Thiên Chúa

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy; Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Yêu – giữ lời: Trong Gioan, “yêu mến” không phải cảm xúc nhất thời, mà là chọn lựa sống theo lời (logos) Đức Giêsu. Ở lại (monē): Không chỉ là “ghé thăm” tâm hồn con người, nhưng là cư ngụ liên lỉ, như lời hứa ở Ga 15,4: “Anh em hãy ở lại trong Thầy…” Sự hiện diện Ba Ngôi tiệm tiến: Người yêu mến Đức Giêsu sẽ trở thành nơi Thiên Chúa Ba Ngôi cư ngụ.

- Câu 24 – Đối lập với người không yêu mến

Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy…” Không giữ lời nghĩa là từ chối sự hiện diện, khép lòng lại với Thiên Chúa. Lời Đức Giêsu là lời của chính Chúa Cha – từ chối Người là từ chối Đấng đã sai Người.

- Câu 25-26 – Hứa ban Chúa Thánh Thần

Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần… sẽ dạy anh em mọi điều…” Đấng Bảo Trợ (Paraklētos): vừa là người an ủi, vừa là luật sư bào chữa, vừa là người nhắc lại lời Chúa, giúp hiểu Lời cách đúng đắn và sống động. Thánh Thần không dạy điều gì mới, nhưng nhắc lại và khai mở chiều sâu Lời Chúa, giúp các môn đệ sống Đức Tin trong hoàn cảnh mới sau khi Chúa “ra đi”.

- Câu 27 – Bình an của Thầy khác bình an thế gian

Thầy để lại bình an cho anh em… Bình an của Thầy không như thế gian ban tặng.” Bình an (eirēnē) ở đây là hoa trái của sự hiệp nhất với Thiên Chúa, không lệ thuộc hoàn cảnh. Khác với “bình an chính trị” hay “tránh xung đột”, bình an Đức Giêsu ban là nội lực thần linh giúp con người đứng vững giữa bách hại.

- Câu 28 – Sự ra đi là điều đáng mừng

Nếu anh em yêu mến Thầy, hẳn anh em mừng vì Thầy đi về cùng Cha…” Tình yêu đích thực không ích kỷ. Nếu các môn đệ yêu Thầy, họ phải mừng vì Thầy được hiển vinh, thay vì sầu buồn khi mất Thầy. Đức Giêsu mở ra cái nhìn vượt thời gian: ra đi không là vắng mặt, nhưng là bước vào vinh quang và mở đường cho con cái Thiên Chúa theo sau.

- Câu 29 – Niềm tin khi biến cố đến

Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra…” Đức Giêsu muốn môn đệ nhớ rằng mọi sự xảy ra theo kế hoạch cứu độ, để khi “giờ” đến, họ không sợ hãi, nhưng vững tin.

3. Với 3 Ý nghĩa

- “Ở lại với Chúa” là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Không chỉ tin vào Chúa, người môn đệ được mời gọi để trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa nhờ tình yêu và việc giữ Lời Chúa.

- Chúa Thánh Thần – người bạn đồng hành của Hội Thánh. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là sau khi Chúa Giêsu “ra đi”, chính Thánh Thần là bảo chứng cho sự hiện diện, giúp Hội Thánh không lạc hướng.

- Bình an đích thực không lệ thuộc hoàn cảnh bên ngoài. Bình an là hoa trái thiêng liêng, phát xuất từ sự kết hiệp với Ba Ngôi, giúp tín hữu vững tin dù đối diện khổ đau hay sự dữ.

4. Kết luận

Ga 14,23‑29 là bản tuyên ngôn về một Hội Thánh sống động sau khi Thầy ra đi: Hội Thánh ấy được yêu thương, được hướng dẫn bởi Thánh Thần, và sống trong bình an vượt trên mọi biến cố. Đây là căn tính và niềm hy vọng của từng Kitô hữu trong hành trình làm môn đệ.

Thầy để lại bình an cho anh em.” – Lời ấy không phải để an ủi rẻ tiền, mà là bảo đảm sống động cho mọi ai yêu mến và giữ Lời Người.


Wednesday, April 30, 2025

Top 5+ bức tranh sơn dầu Phục Hưng nổi tiếng nhất thế giới

 Thời kỳ Phục Hưng, trong tiếng anh gọi là Renaissance, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nghệ thuật và văn minh phương Tây. Ban đầu, nhiều người tin rằng phong trào Phục Hưng bắt nguồn từ thế kỷ XVI, nhưng thông qua việc nghiên cứu tài liệu ghi chép, chúng ta biết được rằng phong trào này bắt đầu nhô ra từ thế kỷ XIV tại Italia (Quattrocento – 1400).

Từ “Renaissance” trong tiếng Pháp và “Rinascimento” trong tiếng Italia có nghĩa là sự tái sinh. Nó thể hiện sự hồi sinh của những giá trị nghệ thuật, tư tưởng và khoa học từ thời kỳ cổ đại, cũng như sự phát triển hoàng kim của văn minh phương Tây. Tranh sơn dầu Phục Hưng đặc trưng cho những giá trị và đặc điểm quan trọng của thời kỳ này.

Tranh sơn dầu phục hưng Khu vườn lạc thú trần tục (tiếng Anh: The Garden of Earthly Delights) họa sĩ Hieronymus Bosch
Khu vườn lạc thú trần tục (tiếng Anh: The Garden of Earthly Delights) họa sĩ Hieronymus Bosch

Thời kỳ Phục Hưng đã đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử nghệ thuật và văn minh, và tranh Phục Hưng là biểu tượng cho sự phát triển và sự hồi sinh của nền văn minh phương Tây. Trong thời kỳ này, tranh sơn dầu Phục Hưng là một trong những giá trị hội họa cốt lõi đóng góp vào sự phát triển rực rỡ của cả một giai đoạn lịch sử.

Tranh sơn dầu Phục Hưng là gì?

Tranh sơn dầu Phục Hưng là một phong trào nghệ thuật quan trọng trong lịch sử nghệ thuật thế kỷ 19. Nó đã nổi lên như một phản ứng chống lại trường phái cổ điển và lan rộng từ châu Âu, đặc biệt là từ Pháp và Anh, ra khắp thế giới.

Trường phái tranh sơn dầu Phục Hưng là một trào lưu nghệ thuật tập trung vào việc tái hiện lại các chủ đề lịch sử, tôn giáo, tâm linh và những niềm tin tôn giáo mang tính chất thời đại theo phong cách mới. Ngoài ra, các chủ đề còn thường tập trung vào các cảnh vật tự nhiên, chân dung hay cảnh đô thị. Sự kết hợp giữa các chủ đề này tạo nên những tác phẩm tranh sơn dầu độc đáo và phong phú về mặt nghệ thuật.

Tác phẩm Tranh sơn dầu phục hưng Saint Catherine of Alexandria của họa sĩ  Raphael
Tác phẩm Saint Catherine of Alexandria của họa sĩ Raphael

Những danh họa thời kỳ Phục Hưng nổi tiếng có thể kể tên như Leonardo da VinciMichelangeloRaphaelSandro Botticelli, …. Các tác phẩm của các ông đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc đến giới nền nghệ thuật hội họa thế giới và vẫn được yêu thích cũng như bảo tồn đến tận ngày nay. Rất nhiều các tác phẩm hiện đang được trưng bày tại các Bảo tàng Mỹ thuật nổi tiếng trên Thế giới, cũng như thuộc sở hữu của giới sưu tầm nghệ thuật.

Các giai đoạn phát triển của giai đoạn tranh sơn dầu Phục Hưng

Giai đoạn đầu tiên của tranh sơn dầu Phục Hưng

Giai đoạn sơ khai bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII tại Italia, những tác phẩm lúc bấy giờ đã bắt đầu khám phá không gian trong tranh, tạo sự xa gần mặc dù chưa cụ thể, chỉ là sơ khai, chưa tách bạch, chiều sâu chưa lớn. Tuy nhiên, điều này đã đem lại những quan điểm mới lạ trong hội họa của các tác giả nổi tiếng như Sipawe, Giotto di Bontone, Donatello,… Mặc dù chưa có nhiều tính đột phá, nhưng đây lại là một giai đoạn quan trọng về sự thay đổi tư duy mới cho con người.

Giai đoạn phát triển thứ hai của tranh sơn dầu Phục Hưng

Nghệ thuật thế kỷ XIV và XV đã chứng kiến sự mở đầu đầy ấn tượng từ Masaccio, người đã tạo ra những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật lớn hơn. Thừa hưởng và phát triển từ giai đoạn trước, nghệ sĩ này đã tạo ra những tác phẩm với phép phối cảnh, hình hoạ, điêu khắc và ánh sáng rõ ràng, tạo nên những mảng sáng tối tương phản trên nhân vật sắc nét. Điều này đã đánh dấu một giai đoạn tạo tính đột phá trong lịch sử nghệ thuật.

Giai đoạn phát triển thứ ba của tranh sơn dầu Phục Hưng

Tranh sơn dầu Phục Hưng, từ khoảng năm 1490 – 1500 đến 1520, được xem là giai đoạn phát triển cường thịnh của nghệ thuật hội họa. Các tác phẩm của thời kỳ này đạt đến sự hoàn mỹ và tinh tế, trở thành các kiệt tác vẫn được ngưỡng mộ cho đến ngày nay. Với sự xuất hiện của những danh họa vĩ đại như Leonardo da Vinci, Raphael và Michelangelo  tranh sơn dầu Phục Hưng đã đạt đến đỉnh cao về việc sử dụng ánh sáng và màu sắc trong hội họa.

Những đặc điểm đặc trưng của tranh sơn dầu Phục Hưng

Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại

Phong cách nghệ thuật tranh sơn dầu Phục Hưng là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Không chỉ truyền tải thông điệp và giá trị của từng thời đại mà dòng tranh này còn tái hiện thế giới xung quanh thông qua các chủ đề lịch sử hoặc tôn giáo. Đồng thời, nó cũng áp dụng các phong cách nghệ thuật hiện đại như sử dụng màu sắc táo bạo, hay sử dụng các kỹ thuật vẽ tách biệt độc đáo để tạo nét ấn tượng. Ngoài ra, phong cách nghệ thuật này còn kết hợp giữa nền văn hóa châu Âu và châu Á, tạo ra sự đa dạng và phong phú trong các bức tranh.

Bức Le Triomphe de la Mort ("Thần Chết Khải hoàn", vẽ khoảng 1562) của Pieter Bruegel - Tranh sơn dầu phục hưng
Bức Le Triomphe de la Mort (“Thần Chết Khải hoàn”) của Pieter Bruegel 

Kỹ thuật pha trộn màu đỉnh cao

Kỹ thuật pha trộn màu trong tranh sơn dầu Phục Hưng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và phong phú đầy tinh tế. Bằng cách kết hợp các màu sơn khác nhau và sử dụng các kỹ thuật tạo hiệu ứng, các họa sĩ có thể tạo ra sự phức tạp và sâu sắc cho tranh của mình. Điều này giúp tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đầy sức hút và ấn tượng.

Tranh sơn dầu Phục Hưng chân thực và có độ phức tạp cao

Tranh sơn dầu Phục Hưng là một dạng nghệ thuật có độ phức tạp cao, được tạo ra thông qua việc sử dụng kỹ thuật vẽ tay tỉ mẩn, chi tiết và công phu để tạo ra các chi tiết chính xác và rõ ràng. Sự kết hợp giữa kỹ thuật vẽ, pha trộn màu, sơn lớp và các kỹ thuật khác giúp tạo ra những tác phẩm nghệ thuật tinh tế và độc đáo. Điều này đem lại sự phức tạp và chân thực cao cho các tác phẩm tranh Phục Hưng.

Những giá trị ý nghĩa của tranh sơn dầu Phục Hưng

Tranh sơn dầu Phục Hưng mang nhiều giá trị về: văn hóa, lịch sử, giá trị nghệ thuật quan trọng lẫn giá trị vật chất. Những tác phẩm này được tạo ra và gắn liền với thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ 15-16) tại châu Âu. Tranh sơn dầu thời kỳ Phục Hưng chính là những dữ kiện lịch sử chứa đựng kho tàng thông tin về văn hóa và tư duy của thời kỳ Phục Hưng.

Chân dung Arnolfini của họa sĩ Jan van Eyck - Tranh sơn dầu phục hưng
Chân dung Arnolfini của họa sĩ Jan van Eyck

Giá trị về mặt văn hóa, lịch sử

Những bức tranh Phục Hưng là biểu tượng của sự phục hồi quan trọng trong lịch sử nghệ thuật, đánh dấu sự tái xuất của nền văn hóa La Mã cổ đại cùng với sự thay đổi về bút pháp nghệ thuật và kỹ thuật vẽ. Đồng thời, những tác phẩm này cũng được tạo ra để tôn vinh và truyền tải thông điệp tôn giáo, thể hiện tầm quan trọng của tôn giáo trong xã hội và văn hóa thời đại đó. 

Giá trị về nghệ thuật

Những bức tranh sơn dầu Phục Hưng đã có tầm ảnh hưởng lớn đối với nghệ thuật và hội họa sau này. Chúng thể hiện sự chuyển đổi, phát triển của hội họa từ nghệ thuật thời Trung cổ sang nghệ thuật hiện đại, với sự phát triển ở mọi khía cạnh từ hiệu ứng màu sắc, ánh sáng đến cách thể hiện cảnh quan chân thực hơn về con người và tự nhiên. Những tác phẩm này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các trường phái nghệ thuật trong những giai đoạn sau, như phong cách cổ điển, tân cổ điển, ấn tượng, hiện đại và nhiều hơn nữa.

Tranh sơn dầu phục hưng Tác phẩm 'Madonna Sistine' của Raphael
Tác phẩm ‘Madonna Sistine’ của Raphael

Giá trị vật chất tài sản

Tranh sơn dầu Phục Hưng có giá trị cao không chỉ do tên tuổi và tính độc bản của họa sĩ, mà còn do tình trạng bảo tồn của nó, rất nhiều bức tranh đã tồn tại hàng trăm năm và giá trị của nó ngày càng tăng lên. Những yếu tố này cùng nhau tạo nên giá trị cụ thể của mỗi tác phẩm nghệ thuật. Những bức tranh sơn dầu Phục Hưng quý hiếm có thể được bán với giá hàng triệu đô la trong các buổi đấu giá nghệ thuật danh tiếng.

Điểm danh những bức tranh sơn dầu Phục Hưng nổi tiếng nhất

Thời kỳ Phục Hưng (Renaissance) là một thời kỳ lịch sử nghệ thuật và văn hóa phát triển vô cùng rực rỡ tại châu Âu, từ khoảng thế kỷ 14 cho đến thế kỷ 17. Tranh sơn dầu Phục Hưng là một trong những loại tranh được ưa chuộng trong thời kỳ Phục Hưng, nổi tiếng với những chủ đề như lịch sử, tôn giáo và phong cảnh. Dưới đây cùng LanVu Gallery điểm danh top những bức tranh sơn dầu Phục Hưng nổi tiếng và đẹp nhất đã được giới chuyên môn và công chúng  công nhận:

1. Bức “Bữa tiệc cuối cùng” (The Last Supper) của của Leonardo da Vinci

Bức tranh  “Bữa tiệc cuối cùng” (The Last Supper) của Leonardo da Vinci là một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại của thế kỷ 15. Nó mô tả một khoảnh khắc quan trọng trong Kinh Thánh và được vinh danh là một trong những bức tranh đẹp nhất thế giới. Bức tranh này đã trở thành một phần quan trọng của di sản văn hóa thế giới và là một điểm đến không thể bỏ qua khi du lịch đến Milan, Ý.

“Bữa tiệc cuối cùng”, 1498 của Leonardo da Vinci
“Bữa tiệc cuối cùng”, 1498 của Leonardo da Vinci

2. Bức  Mona Lisa của Leonardo da Vinci

Bức tranh Mona Lisa của Leonardo da Vinci là một trong những tác phẩm nghệ thuật kinh điển nổi tiếng nhất thế giới. Với kích thước khoảng 77 x 53 cm, bức tranh này được vẽ trên tấm gỗ dày. Sự độc đáo và sức hút của nó đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật cho đến ngày nay. Hiện tác phẩm đang được trưng bày tại Viện bảo tàng  Louvre của Pháp.

Tác phẩm Mona Lisa của Leonardo da Vinci đang trưng bày tại Viện bảo tàng  Louvre của Pháp.
Tác phẩm Mona Lisa của Leonardo da Vinci đang trưng bày tại Viện bảo tàng  Louvre của Pháp.

3. Bức  “Trường học Athens” (The School of Athens) của Raphael

Bức tranh “The School of Athens” là một tác phẩm sơn dầu được vẽ trên tường của Stanza della Segnatura tại Vatican bởi họa sĩ nước Ý Raphael. Với kích thước 5,79 m x 8,24 m, bức tranh này đã hoàn thành vào năm 1511.

Được biết đến với sự pha trộn tinh tế giữa tư duy triết học và sự tinh tế của nghệ thuật, “The School of Athens” thể hiện bản chất sáng tạo của Raphael. Ông sử dụng màu xanh để làm nền cho bức tranh, tạo điểm nhấn và sự nổi bật. Bằng cách sử dụng các kỹ thuật tiên tiến trong phối màu và phân tầng khung cảnh, Raphael đã tạo ra một không gian rộng lớn và có chiều sâu cho bức tranh, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại và đầy ảnh hưởng.

Trong bức tranh có 21 triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, như Pythagoras, Heraclitus... trong đó Plato và Aristotle được đặt ở trung tâm.
Trong bức tranh có 21 triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, như Pythagoras, Heraclitus… trong đó Plato và Aristotle được đặt ở trung tâm.

4. Bức “Sự ra đời của thần Vệ nữ” (The Birth of Venus) của Sandro Botticelli

Bức tranh The Birth of Venus của họa sĩ Sandro Botticelli được coi là một trong những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất của thời kỳ Phục Hưng. Vẽ trên một tấm bảng gỗ với kích thước 172,5 cm x 278,5 cm, bức tranh này hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Uffizi ở Florence, Ý. Được hoàn thành vào khoảng giữa thế kỷ 15, The Birth of Venus là một trong những bức tranh sơ khai La Mã kinh điển nhất của Botticelli.

Botticelli vẽ “Sự ra đời của Thần Vệ nữ” trong khoảng thời gian 1484-1485. Bức tranh này được ủy nhiệm bởi một thành viên của gia đình Florentine Medici, được cho là Lorenzo di Pierfrancesco.
Botticelli vẽ “Sự ra đời của Thần Vệ nữ” trong khoảng thời gian 1484-1485. Bức tranh này được ủy nhiệm bởi một thành viên của gia đình Florentine Medici, được cho là Lorenzo di Pierfrancesco.

5. Bức “Chúa tạo ra Adam” (The Creation of Adam) của Michelangelo

The Creation of Adam của Michelangelo là một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, được coi là một trong những bức tranh đỉnh cao của nghệ thuật thế giới. Bức tranh này được vẽ trên trần của nhà thờ Sistine Chapel vào thế kỷ 16 và vẫn được ngưỡng mộ cho sự tinh tế và tài năng của họa sĩ. Với sự kết hợp hoàn hảo giữa kỹ thuật vẽ và ý tưởng tôn giáo, bức tranh The Creation of Adam đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nghệ thuật và văn hóa.

Creation of Adam là bức bích họa được sáng tác từ năm 1508-1512 và là một phần của trần Nhà nguyện Sistine. 
Creation of Adam là bức bích họa được sáng tác từ năm 1508-1512 và là một phần của trần Nhà nguyện Sistine. 

6. Bức “Mùa xuân vĩnh cửu”  (Primavera) của Sandro Botticelli

Tranh sơn dầu Phục Hưng “Mùa xuân vĩnh cửu” (Primavera) là một bức tranh nổi tiếng của họa sĩ người Ý Sandro Botticelli. Tác phẩm được vẽ vào khoảng năm 1482 và hiện đang được trưng bày tại Uffizi Gallery, Florence, Italy. Mùa xuân vĩnh cửu là sự kết hợp giữa nghệ thuật và thần thoại, chứa đựng nhiều yếu tố của tôn giáo và thần thoại Hy Lạp. Tác phẩm được xem là một trong những bức tranh đẹp nhất của thế giới và là một tác phẩm đỉnh cao của nghệ thuật Phục Hưng Ý.

Bức "Primavera" - "Mùa xuân vĩnh cửu" của danh họa Botticelli.
Bức “Primavera” – “Mùa xuân vĩnh cửu” của danh họa Botticelli.

LanVu Gallery – Bảo tàng tranh sơn dầu Phục Hưng thu nhỏ giữa lòng Hà Nội

LanVu Gallery – một góc nhỏ với giấc mơ mang đến cho bạn trải nghiệm văn hóa, lịch sử Châu Âu thông qua hơi thở của nghệ thuật và sự biểu đạt bằng hội họa. Đến với LanVu Gallery bạn không cần phải là một nghệ sĩ, không cần là người quá am hiểu về hội họa chuyên sâu. Vì đơn giản vẻ đẹp nằm trong chính trái tim và đôi mắt mỗi người và nghệ thuật là màu sắc, hương vị và hơi thở của cuộc sống.

Không gian nghệ thuật LanVu Gallery với góc nhỏ đậm chất Châu Âu 
Không gian nghệ thuật LanVu Gallery với góc nhỏ đậm chất Châu Âu 

Nếu bạn đang tìm một địa chỉ mua tranh sơn dầu ở Hà Nội thì đừng quên ghé thăm chúng tôi ở địa chỉ 53 Nguyễn Phong Sắc. Tại showroom LanVu Gallery, chúng tôi tự hào mang tới cho bạn vô số các tác phẩm hội họa đậm hơi thở Châu Âu cổ điển, lấy cảm hứng từ những tác phẩm tranh sơn dầu Phục Hưng. Ngoài ra khi đến với phòng tranh, chúng tôi còn có những gợi ý trang trí không gian mang nhiều phong cách khác nhau đầy sang trọng với tác phẩm cao cấp như tranh sơn dầutranh sơn màitranh màu nước, …

Mỗi tác phẩm là một câu chuyện đang chờ bạn khám phá. Hãy để LanVu Gallery đồng hành cùng dự án ngôi nhà bạn, hãy để chúng tôi hiện thức hóa và làm sống động không gian nhà bạn thông qua từng tác phẩm. Mời bạn ghé showroom LanVu Gallery để thưởng lãm và sưu tầm. Liên hệ chúng tôi theo số hotline 094 888 3535  hoặc 094 886 3535 để được tư vấn chi tiết nhất.

Chiêm Ngưỡng Những Bức Tranh Công Giáo Nổi Tiếng Thế Giới

 

1. Đôi nét về tranh ảnh Công giáo

Tranh Công giáo là thể loại tranh thể hiện lịch sử, nguồn gốc, giáo lý và các nét sinh hoạt của cộng đồng Công giáo. Đây là những tác phẩm mang nhiều phong cách, kỹ thuật và chủ đề nhưng đều hướng tới một mục đích là truyền bá đức tin, sự tôn kính với Chúa trời, Đức Mẹ và các thánh.

Tranh Công giáo là sự kết hợp giữa tín ngưỡng và nghệ thuật

Một số đặc điểm của tranh Công giáo là:

  • Hình ảnh, màu sắc thể hiện ý nghĩa tâm linh, kỳ bí

  • Các nhân vật tôn giáo như Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các thánh, thiên thần, thiên sứ với vẻ đẹp hoàn hảo, biểu cảm thanh cao, trang trọng nhưng đôi khi cũng có phần thương xót và đau khổ

  • Các tác phẩm thường thể hiện sự kết nối giữa Chúa và những con chiên qua các cảnh quan, đời sống, văn hóa, lịch sử

  • Tranh Công giáo gồm các chủ đề đa dạng như tranh kinh thánh, tranh lịch sử, tranh thần thoại, tranh thiên nhiên, tranh hiện đại…với các thể loại tranh tường, sơn dầu, trừu tượng, tranh minh họa…

2. Các biểu tượng thường xuất hiện trong tranh Công giáo

Trong các tác phẩm về chủ đề công giáo, có nhiều biểu tượng quan trọng xuất hiện để truyền tải các thông điệp và ý nghĩa tâm linh. Dưới đây là một số biểu tượng chúng ta thường hay thấy:

  • Chúa Giêsu: Hiện lên với những hình ảnh như Chúa đang chịu nạn, Chúa Thánh Thể

  • Đức Mẹ Maria: Đức mẹ của thiên nhiên và niềm tin

  • Thánh Giuse

  • Thánh Thần: Biểu hiện của ánh sáng linh thiêng hoặc con chim hồng

Tranh Công giáo thường có sự xuất hiện của Chúa, Đức Mẹ

  • Trái tim của Thánh: Biểu tượng cho tình yêu, lòng nhân ái và cả sự xót thương

  • Nhà thờ và Thánh điện: Các đền thờ và kiến trúc tôn giáo biểu tượng cho những nơi linh thiêng của Công giáo

  • Cây Thánh Giá: Thường biểu tượng cho sự hy sinh của chúa Giêsu

  • Thiên thần: Các thiên thần bảo hộ, thiên thần đồng hành thường xuất hiện trong tranh Công giáo.

  • Chén thánh: Là một biểu tượng của bí tích Thánh Thể

  • Sáu Mục Thánh Tâm: Biểu hiện của lòng nhân ái, khiêm tốn, sự tin tưởng, thương xót với Thiên Chúa.

3. Tổng hợp những bức tranh Công giáo nổi tiếng

3.1. The Baptism of Christ (Lễ rửa tội) của Leonardo da Vinci

Một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng đầu tiên phải kể đến là The Baptism of Christ được hoàn thành vào năm 1475 bởi Leonardo da Vinci. Bức tranh mô tả Lễ rửa tội của Chúa Giêsu.

Tác phẩm The Baptism of Christ

3.2. The Last Supper (Bữa tiệc ly) của Leonardo da Vinci

Bữa tiệc ly (The Last Supper) tiếp tục là một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng của Leonardo da Vinci, được vẽ từ năm 1495 đến 1498 trên tường nhà ăn của tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Ý. 

Tác phẩm mô tả cảnh Chúa Jesus và 12 tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi bị bắt. Tác giả đã khắc họa chân thực biểu cảm của các nhân vật trong bàn ăn, thể hiện cảm xúc sâu sắc với những nét vẽ tinh tế.

Tác phẩm Bữa tiệc ly

3.3. Chúa Kitô bị đóng đinh của Velázquez

Đức Kitô bị đóng đinh của Velázquez là tác phẩm kinh điển về đề tài công giáo trên Thế giới. Tác phẩm khắc họa hình ảnh tĩnh lặng của Đức Kitô bị đóng đinh vào một cây Thánh giá.

Tác phẩm được cho là một bức tranh cầu nguyện cho sự tĩnh lặng và suy niệm hơn là thể hiện sự đau đớn mà Chúa đã phải trải qua.

Tác phẩm Chúa Kitô bị đóng đinh của Velázquez

3.4. The Descent from the Cross (Tháo xác khỏi Thánh Giá) của Van der Weyden

Tháo xác khỏi Thánh Giá (The Descent from the Cross) có thể coi là một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng nhất của họa sĩ Rogier van der Weyden và là một trong những kiệt tác ấn tượng nhất của nghệ thuật Phục Hưng.

Bức tranh khắc họa cảnh Chúa Giêsu được tháo xác xuống từ Thánh Giá sau khi ngài đi về cõi vĩnh hằng. Với sự chú trọng đến các chi tiết và cảm xúc sâu sắc của nhân vật, bức tranh đã thể hiện rất rõ nỗi đau và sự sùng kính về sự hy sinh của Chúa.

Bên cạnh đó, bạn có thể tìm hiểu về nghệ thuật thời kỳ này thông qua những bức tranh nổi tiếng thời kỳ Phục Hưng.

Tháo xác khỏi Thánh Giá (The Descent from the Cross)

3.5. The Virgin of the Rocks (Đức Trinh nữ hang đá) của Leonardo Da Vinci

Bức tranh Công giáo nổi tiếng tiếp theo chính là Đức Trinh nữ hang đá (The Virgin of the Rocks) của Leonardo da Vinci.

Tác phẩm miêu tả Đức Trinh Nữ Maria, đứng bên cạnh Chúa Trời khi còn nhỏ, trong một cùng với Thiên thần Gabriel và Thánh Gioan Tẩy Giả trong hang đá.

Bức tranh thể hiện tài năng nghệ thuật của Leonardo trong việc vận dụng ánh sáng và màu sắc, cũng như khả năng diễn đạt cảm xúc chân thực của ông.

 Đức Trinh nữ hang đá (The Virgin of the Rocks) của Leonardo da Vinci

Xem thêm: Những bức tranh nổi tiếng của Leonardo da Vinci

3.6. Tác phẩm Cuộc bàn luận về Bí tích Cực thánh

Một tác phẩm kinh điển về chủ đề công giáo chính là “Cuộc bàn luận về Bí tích Cực thánh” của Raphael.

Tranh miêu tả một cuộc thảo luận tôn giáo về Bí tích Cực thánh, với sự hiện diện của Chúa Giêsu và các nhân vật trên trời và dưới thế tụ hội. Bức tranh thể hiện sự tài năng của Raphael trong việc khắc họa các bối cảnh phức tạp với sự kết hợp giữa triết học, nghệ thuật và tôn giáo.

Tuyệt tác Cuộc bàn luận về Bí tích Cực thánh của Raphael

3.7. The Adoration of the Shepherds (Các mục đồng thờ lạy) của El Greco

Các mục đồng thờ lạy (The Adoration of the Shepherds) của El Greco là một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng hoàn thành vào khoảng năm 1612-1614. Bức họa mô tả cảnh các mục đồng thờ lấy lễ bái chiêm, tôn vinh sự ra đời của Chúa Giêsu.

Tác phẩm Các mục đồng thờ lạy khi Chúa ra đời

3.8. Bức tranh “Sự trong sáng” của Bouguereau (L’Innocence by Bouguereau)

Bức tranh Sự trong sáng (L'Innocence) của William-Adolphe Bouguereau, một họa sĩ hiện thực người Pháp, được hoàn thành vào năm 1893. Tác phẩm mô tả một người phụ nữ trong trang phục trắng thuần khiết đang bế một em bé và một con cừu non, tượng trưng cho sự trong trắng và dịu dàng.

Bức tranh Sự trong sáng

3.9. Annunciation của hoạ sĩ El Greco

Một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng của họa sĩ El Greco phải kể đến là Bức tranh Annunciation (Truyền tin) được hoàn thành vào khoảng năm 1597-1600.

Tác phẩm mô tả cảnh thiên thần Gabriel báo tin cho Đức Mẹ Maria rằng bà sẽ sinh hạ sinh Chúa Giêsu. Bức tranh Annunciation là sự kết hợp giữa nghệ thuật Phục Hưng và phong cách biểu hiện đặc trưng của El Greco, tạo nên một cảnh tượng tâm linh đầy cảm xúc.

Tác phẩm thông báo sự ra đời của Chúa Giêsu

3.10. “Vô nhiễm nguyên tội” của họa sĩ Murillo

Bức tranh Vô nhiễm nguyên tội (The Immaculate Conception) là một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng nhất của họa sĩ Bartolomé Esteban Murillo, được sáng tác vào thế kỷ 17. Tác phẩm miêu tả Đức Mẹ Maria với vẻ đẹp thuần khiết và thánh thiện, xung quanh là các thiên thần. 

Bức tranh Vô nhiễm nguyên tội (The Immaculate Conception)

3.11. The Virgin with a Bunch of Grapes (Trinh nữ của chùm nho) của Mignard

Tác phẩm Trinh nữ của chùm nho (The Virgin with a Bunch of Grapes) của họa sĩ Pierre Mignard là một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng của nghệ thuật Baroque Pháp. Tác phẩm miêu tả Đức Mẹ Maria bế Chúa Giêsu và cầm một chùm nho tím, biểu tượng của Thánh Thể và sự hy sinh của Chúa.

Tác phẩm Trinh nữ của chùm nho (The Virgin with a Bunch of Grapes)

3.12. Coronation of the Virgin (Trao triều thiên cho Đức Trinh nữ Maria) của Velázquez

Tác phẩm Trao triều thiên cho Đức Trinh Nữ Maria (Coronation of the Virgin) của Diego Velázquez, hoàn thành năm 1645, là một tranh ảnh công giáo tiêu biểu của nghệ thuật Baroque Tây Ban Nha. Bức tranh mô tả cảnh Đức Mẹ Maria được Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần trao vương miện, tôn vinh bà là Nữ Vương Thiên Đàng.

Tác phẩm Trao triều thiên cho Đức Trinh Nữ Maria (Coronation of the Virgin) của Diego Velázquez

3.13. Tears of Saint Peter (Những giọt nước mắt của Thánh Phêrô) của El Greco

Bức tranh Những giọt nước mắt của Thánh Phêrô (Tears of Saint Peter) của El Greco là một trong những bức tranh Công giáo nổi tiếng hoàn thành vào khoảng năm 1580-1586. Tác phẩm miêu tả cảnh Thánh Phêrô rơi nước mắt sau 3 lần từ chối biết Chúa Giêsu trong lúc ngài bị xét xử.

Bức tranh Những giọt nước mắt của Thánh Phêrô (Tears of Saint Peter)

3.14. Christ and the Woman of Samaria của hoạ sĩ Pierre Mignard

Christ and the Woman of Samaria là bức tranh Công giáo nổi tiếng thế giới được vẽ bằng chất liệu sơn dầu trên canvas vào năm 1637 của họa sĩ người Ý Artemisia Gentileschi.

Tác phẩm mô tả lại hình ảnh Chúa Kitô và người phụ nữ Samaria trong đang ngồi nói chuyện được viết trong Tân Ước.

Tác phẩm Christ and the Woman of Samaria

Kết luận

Mỹ Thuật Sống vừa giúp bạn tìm hiểu về đặc điểm và những bức tranh Công giáo nổi tiếng thế giới. Qua đây, bạn sẽ có thêm cho mình một góc nhìn sâu sắc về hội họa, hiểu rõ hơn về các phong cách nghệ thuật đặc trưng cũng như sự kết hợp tinh tế giữa tín ngưỡng và nghệ thuật trong lịch sử mỹ thuật.

NGUỒN: Mỹ Thuật Sống.vn

WORLD WORLD