MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
LIÊN QUAN ĐẾN PHỤNG VỤ THÁNH LỄ
Tuấn Việt
WHĐ (12-06-2020)
– Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, đã nhắc nhở về tầm quan trọng của bí tích
Thánh Thể như là trung tâm và tột đỉnh của đời sống Giáo Hội.[1]
Chính vì tầm quan trọng này, cũng như vị trí và vai trò của bí tích Thánh Thể
trong đời sống của Giáo Hội, trong Thông điệp của ngài, Đức giáo hoàng Gioan
Phaolô II thấy là cần phải lưu ý mọi thành phần của Dân Chúa về những tiêu cực
và lạm dụng có thể là nhân danh chính tinh thần cởi mở của Công đồng Vatican
II, trong việc cử hành thánh lễ[2]: “cần phải lên tiếng một cách cương quyết, để
trong cử hành thánh lễ, những quy luật phụng vụ luôn được tuân giữ một cách
đúng đắn.”[3]
Thật vậy, các quy
tắc phụng vụ vốn là những yếu tố rất quan trọng và cần thiết, bởi vì các quy tắc
ấy sẽ bảo đảm cho sự linh thánh trổi vượt của các cử hành phụng vụ, vốn dĩ
không một hành vi nào của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét về danh hiệu lẫn đẳng
cấp.[4] Phụng vụ, nhất là thánh lễ, không thuộc
cá nhân, nhưng là của toàn thể Giáo Hội. Các quy tắc phụng vụ được soạn thảo
liên quan đến việc cử hành thánh lễ đều nhằm mục đích diễn đạt và bảo vệ mầu
nhiệm Thánh Thể.[5] Kết
quả là “Linh mục nào và cộng đoàn nào
trung thành cử hành thánh lễ theo quy luật phụng vụ chứng tỏ tình yêu của họ đối
với Giáo Hội một cách âm thầm nhưng rõ rệt”[6].
Bài viết này – chủ
yếu dựa trên Huấn thị Redemptionis Sacramentum,
Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma ấn bản 2002, Bộ Giáo luật 1983 và một số tài
liệu khác – nhằm trình bày về một số vấn
đề cần lưu ý liên quan đến phụng vụ thánh lễ, để nói lên tầm quan trọng của
việc cử hành thánh lễ sao cho đúng với các quy tắc được Giáo Hội quy định. Một
cách tổng quát, các quy tắc này liên quan đến:
– Nơi chốn và vật
dụng của việc cử hành thánh lễ
– Việc cử hành
thánh lễ
– Phụng vụ Lời
Chúa
– Phụng vụ Thánh
Thể
– Việc rước lễ
– Việc cho rước lễ
– Việc rước lễ dưới
hai hình
– Lễ phục của các
thừa tác viên trong thánh lễ.
1. NƠI CHỐN VÀ VẬT DỤNG CỦA VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
a. Nơi chốn
Linh mục phải cử
hành thánh lễ trong một nơi thánh, trong trường hợp đặc biệt, không thể cử hành
trong nơi thánh, thì cũng phải cử hành ở một nơi tôn nghiêm. Thánh Thể phải được
cử hành trên bàn thờ đã được cung hiến hoặc đã được làm phép. Nếu thánh lễ được
cử hành ngoài nơi thánh, có thể sử dụng một bàn xứng đáng, nhưng luôn luôn phải
có trải khăn bàn thờ và khăn thánh.[7]
Linh mục không
bao giờ được phép cử hành thánh lễ tại một đền thờ hoặc một nơi tôn nghiêm của
một tôn giáo không phải là Kitô giáo, nếu không có phép minh nhiên của Đấng bản
quyền địa phương.[8]
Không được cử
hành thánh lễ trên bàn ăn, tại nhà cơm, hay những nơi dành cho việc ăn uống hay
bất cứ nơi nào có thức ăn, trừ những trường hợp cần thiết hay đặc biệt. Nếu phải
cử hành trong nhà ăn, thì phải giữ một khoảng thời gian tách biệt sau hoặc trước
bữa ăn. Cũng không dọn thức ăn ra khi đang cử hành thánh lễ.[9]
Không được dâng
thánh lễ riêng cùng lúc với thánh lễ đồng tế đang được cử hành trong cùng một
nhà thờ hay nhà nguyện.[10]
Không được đồng tế
thánh lễ với các tư tế hay thừa tác viên thuộc các Giáo Hội hay các cộng đoàn
Giáo Hội không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo.[11]
b. Vật dụng
Các mục tử phải bảo
đảm các khăn thánh của bàn thánh phải luôn luôn sạch sẽ, đặc biệt những khăn có
chạm đến Mình Máu Thánh Chúa. Các khăn này phải được giặt rất thường xuyên.[12]
Cần phải chuẩn bị
chu đáo để thánh lễ được diễn ra một cách sốt sắng: âm nhạc, trang trí hoa đèn,
khăn thánh, bàn thờ... phải đẹp đẽ và sạch sẽ xứng đáng với việc cử hành nghi lễ
cực thánh.[13] Việc
cử hành thánh lễ cũng cần phải được chuẩn bị kỹ càng và cẩn thận: nghi thức, bản
văn phụng vụ, bản văn thánh kinh, bài diễn giải... nhằm gìn giữ và nuôi dưỡng đức
tin các tín hữu.[14]
Đĩa thánh, các
bình thánh, dùng để đựng Mình và Máu Thánh Chúa, phải được làm hoàn toàn đúng với
các quy tắc của truyền thống và của các sách phụng vụ. Các vật dụng này phải được
làm với những chất liệu quý giá, chắc chắn và có tính nghệ thuật để bày tỏ sự
tôn kính Chúa, và tránh nguy cơ làm giảm lòng tôn kính và lòng tin đối với sự
hiện diện thực sự của Đức Kitô dưới hình bánh và hình rượu. Do đó, phải loại bỏ
những đồ vật không có chút nào là nghệ thuật, hay chỉ là những cái giỏ thường,
hay những đồ đựng bằng thuỷ tinh, đất sét, đất nung hay bằng những chất liệu
khác dễ bể, dễ hỏng.[15]
Trước khi sử dụng,
các bình thánh phải được linh mục làm phép, theo các nghi lễ được các Sách phụng
vụ ấn định.[16] Tốt
hơn nữa là để chính giám mục giáo phận làm phép, qua đó, ngài có thể đánh giá
coi các bình thánh có thật đúng với công dụng dành cho chúng không.[17]
2. VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
Không được thay đổi
hay biến đổi các bản văn phụng vụ thánh, vì việc thay đổi này sẽ gây hậu quả
nghiêm trọng là làm mất tính ổn định trong việc cử hành phụng vụ thánh, làm biến
mất ý nghĩa đích thực của phụng vụ.[18]
Chủ tế chỉ đọc
các lời nguyện nhập lễ, tiến lễ, và hiệp lễ của thánh lễ đó mà thôi, không được
đọc ghép các lời nguyện của các thánh lễ khác nhau lại với nhau.[19]
Không được thay thế các bài hát trong Lễ quy bằng các bài hát khác.[20]
Không được tách rời
phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, cũng như tách các phần khác nhau của
thánh lễ để cử hành trong những thời gian và địa điểm khác nhau, cho dù trong
cùng một ngày.[21]
Không được cử
hành thánh lễ chung với bí tích giao hòa như một phụng vụ duy nhất. Tuy nhiên,
một linh mục không đồng tế có thể ngồi tòa giải tội trong khi thánh lễ đang được
cử hành. Nhưng cũng cần tiến hành việc này một cách thích hợp.[22]
Không được cử
hành thánh lễ đi liền với việc cử hành các bí tích và phụ tích trong các Chúa
nhật mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục Sinh, các lễ trọng, các ngày trong tuần Bát
Nhật Phục Sinh, lễ Cầu cho các tín hữu qua đời, thứ Tư lễ Tro và các ngày trong
Tuần thánh.[23]
Các thông báo hay
trình bầy do giáo dân thực hiện phải được thực hiện ngoài thánh lễ, hoặc nếu vì
lý do nghiêm trọng, thì có thể làm sau lời nguyện hiệp lễ. Không để điều này trở
thành thói quen, cũng như tránh gây lầm lẫn với bài giảng hoặc làm nguyên nhân
để bỏ bài giảng.[24]
Không được dâng
thánh lễ theo kiểu trình diễn. Tuyệt đối không được đưa vào thánh lễ những nghi
thức vay mượn từ các tôn giáo khác.[25]
Cần tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho một linh mục lạ cử hành hay đồng tế thánh lễ, miễn là linh mục
này xuất trình chứng thư (hay celebret)
của Tông Toà, hay của Đấng bản quyền, hay bề trên của mình, được cấp trong năm,
hoặc vị chịu trách nhiệm có thể nhận định cách khôn ngoan rằng không có gì ngăn
trở vị linh mục ấy được dâng lễ.[26]
Thánh lễ được cử
hành bằng tiếng La tinh hay bằng một ngôn ngữ khác, với điều kiện phải sử dụng
những bản văn phụng vụ đã được phê chuẩn theo quy tắc luật định. Ngoại trừ các
thánh lễ phải cử hành theo ngôn ngữ của dân chúng, theo thời khóa biểu và theo
thời gian do giáo quyền ấn định, các linh mục được phép cử hành thánh lễ bằng
tiếng La tinh, ở mọi nơi và mọi lúc.[27]
Khi thánh lễ được
nhiều linh mục đồng tế, kinh nguyện Thánh Thể phải được đọc trong ngôn ngữ mà tất
cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành đều biết. Có thể xảy
ra trường hợp, trong số các linh mục hiện diện, có vị không biết ngôn ngữ được
dùng khi cử hành và không thể đọc các phần kinh nguyện Thánh Thể dành riêng cho
mình. Trong trường hợp này, các ngài không đồng tế, nhưng tốt hơn các ngài chỉ
tham dự cử hành và mặc áo dành riêng, ở trong cung thánh, theo quy định.[28]
Trong các thánh lễ
đồng tế, không được phép thay đổi vị chủ tế, trừ hai trường hợp ngoại lệ: Trường
hợp thứ nhất, khi vị giám mục chủ tọa việc cử hành trong y phục kinh hội, nghĩa
là ngài tham dự thánh lễ nhưng không cử hành thánh lễ, điều này xảy ra khi vị
giám mục đến tham dự lễ ngân khánh của một linh mục. Khi đó, vị giám mục có thể
giảng và ban phép lành cuối lễ. Trường hợp thứ hai xảy ra trong lễ tấn phong
giám mục, sau khi được tấn phong, vị tân giám mục sẽ chủ tế thánh lễ. Những điều
này liên quan đến bản chất của tác vụ giám mục.[29]
Phải dứt khoát
bài trừ sự lạm dụng tùy tiện của các linh mục trong việc đình chỉ cử hành thánh
lễ cho dân chúng, trái quy tắc của Sách lễ Rôma và truyền thống đúng đắn của
Nghi lễ Rôma, viện cớ để khuyến khích “chay tịnh Thánh Thể”.[30]
Không được tăng số
lượng thánh lễ trái với quy tắc giáo luật. Những gì liên quan đến bổng lễ, phải
tuân thủ tất cả các quy tắc của giáo luật hiện hành.[31]
3. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Phải cử hành phụng
vụ Lời Chúa thế nào để tạo thuận lợi cho việc suy gẫm, vì thế tuyệt đối tránh mọi
hình thức vội vã, ngăn trở việc hồi tâm. Nên có những giây phút thinh lặng ngắn,
tùy theo cộng đoàn tụ họp, để nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa được
tiếp nhận trong tâm hồn và lời đáp trả qua kinh nguyện. Những lúc nên giữ thinh
lặng đó là sau bài đọc thứ nhất và thứ hai, cũng như sau bài giảng.[32]
Cần phải đọc đúng
bản văn Thánh Kinh theo quy tắc có sẵn trong sách phụng vụ. Không được phép bỏ
hay thay đổi một cách tùy tiện, nhất là không được thay thế bằng các bản văn
không phải là Thánh Kinh.[33]
Không một giáo
dân hay tu sĩ nào được phép công bố bài Tin Mừng trong thánh lễ.[34]
Bài giảng là một
thành phần quan trọng trong phụng vụ thánh lễ, do đó, buộc phải có và không được
bỏ, trừ khi có lý do quan trọng, vào các ngày Chúa nhật và lễ buộc trong mọi
thánh lễ cử hành có đông giáo dân tham dự.[35]
Tuyệt đối cấm
giáo dân hay chủng sinh, sinh viên thần học hoặc bất cứ ai không có chức thánh
giảng trong thánh lễ.[36]
Giám mục là người
có trách nhiệm chăm chú theo dõi bài giảng của các thừa tác viên có chức thánh,
chia sẻ cho họ những quy tắc, phương hướng cũng như những giúp đỡ khác cho việc
soạn bài giảng.[37]
Không được thay
thế kinh Tin Kính hoặc Tuyên xưng Đức tin bằng các bản văn khác không có trong
sách phụng vụ được phê chuẩn hợp lệ.[38]
4. PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Bánh dùng trong
thánh lễ phải là bánh được làm bằng bột lúa mì nguyên chất và mới làm để tránh
nguy cơ hư hại.[39] Những
thứ bánh làm bằng các chất liệu khác hoặc bánh được làm từ bột mì có pha các chất
khác không được xem là chất thể thành sự cho việc cử hành thánh lễ.[40]
Ngoài ra phải biết chắc là bánh được làm ra bởi những người đứng đắn, biết cách
làm và làm với dụng cụ thích hợp.
Rượu nho phải là
rượu tự nhiên từ trái nho, không bị hư, không được pha thêm những chất khác.[41]
Trong lúc cử hành thánh lễ, người ta thêm vào rượu nho một chút nước. Tuyệt đối
cấm sử dụng rượu không rõ hoặc nghi ngờ về tính xác thực và nguồn gốc. Và chắc
chắn không được sử dụng một thức uống nào khác thay thế rượu nho trong thánh lễ.[42]
Việc dâng lễ vật
không nhất thiết chỉ là bánh rượu, ngoài bánh rượu ra còn có thể dâng những tặng
vật khác, do các tín hữu mang đến hoặc chuẩn bị sẵn, có thể là tiền bạc, nhằm mục
đích thi hành bác ái dành cho người nghèo. Những tặng vật này phải để ở nơi xứng
hợp ngoài bàn tiệc Thánh Thể.[43]
Không được truyền
phép một chất thể mà không có chất thể kia, hoặc truyền phép cả hai chất thể
ngoài lúc cử hành thánh lễ, cho dù trong trường hợp khẩn cấp và hết sức cần thiết.[44]
Không được tự
biên soạn kinh nguyện Thánh Thể hoặc tự ý sửa đổi bản văn kinh nguyện Thánh Thể
đã được phê chuẩn.[45]
Kinh nguyện Thánh
thể phải được đọc hoàn toàn bởi linh mục, và chỉ bởi ngài mà thôi. Như vậy, thừa
tác viên giáo dân hoặc một tín hữu hoặc toàn thể tín hữu, thậm chí phó tế cũng
không được đọc bất cứ phần nào của kinh nguyện Thánh Thể.[46]
Khi đọc kinh nguyện
Thánh Thể, không được đàn hát hay đọc kinh gì, ngoại trừ những lời tung hô, đối
đáp như được ghi trong Sách lễ Rôma, hoặc đã được Hội đồng Giám mục phê chuẩn
và Tòa Thánh xác nhận.[47]
Không được bỏ sót
tên Đức giáo hoàng và giám mục giáo phận, để bày tỏ sự hiệp thông với giám mục
của mình và với giám mục Rôma.[48]
Không được bẻ
bánh khi đọc lời truyền phép.[49] Việc
bẻ bánh được thực hiện sau khi chúc bình an, trong khi hát hoặc đọc kinh Agnus Dei. Chỉ có vị chủ tế bẻ bánh, hoặc
nếu cần, với sự trợ giúp của phó tế hay vị đồng tế. Giáo dân không được bẻ
bánh. Cần thực hiện việc này với một tấm lòng hết sức tôn kính, nhưng đơn giản,
và ngắn gọn, tránh những nghi thức kéo dài không cần thiết.[50]
Bánh sau nghi thức
bẻ bánh, nên được trao cho ít là một vài tín hữu rước lễ, để diễn đạt ý nghĩa
“ăn chung một bánh”. Dĩ nhiên, người ta được dùng bánh nhỏ để khỏi phải bẻ ra,
đáp ứng được số lượng người rước lễ đông.[51]
5. VIỆC RƯỚC LỄ
a. Việc rước lễ của linh mục
Mỗi khi linh mục
cử hành thánh lễ, ngài sẽ rước lễ tại bàn thờ, vào lúc do Sách Lễ ấn định. Bên
cạnh đó, các vị đồng tế sẽ rước lễ trước khi đi trao Mình Thánh Chúa. Linh mục
chủ tế hay đồng tế không bao giờ đợi dân chúng rước lễ xong rồi mới rước lễ.[52]
Các linh mục đồng
tế rước lễ bằng bánh đã được truyền phép trong chính thánh lễ cử hành[53]; vả
lại, tất cả các vị đồng tế phải luôn luôn rước lễ dưới hai hình. Phải lưu ý rằng,
khi linh mục hoặc phó tế trao mình thánh hay chén thánh cho các vị đồng tế,
ngài không nói gì, nghĩa là không có đọc những lời: “Mình Thánh Chúa Kitô” hay
“Máu Thánh Chúa Kitô”.[54]
Các linh mục
không thể cử hành hay đồng tế luôn luôn được phép rước lễ dưới hai hình.[55]
b. Việc rước lễ của giáo dân
Cần nhắc nhở cho
giáo dân chuẩn bị tâm hồn xứng hợp khi lên rước lễ. Đặc biệt, trong những ngày
lễ lớn với số đông người tham dự, cần lưu ý đừng để những người không phải Công
giáo lên rước lễ, và cần tuân thủ điều này một cách chặt chẽ.[56]
Các vị mục tử phải
khẩn khoản thúc giục các tín hữu lãnh bí tích giao hòa ngoài thánh lễ, nhất là
vào những giờ ấn định, để họ được xưng tội một cách êm thắm và thực sự có ích
cho họ, mà họ cũng không bị ngăn trở tham dự thánh lễ cách tích cực. Phải nhắc
nhở những ai có thói quen rước lễ hằng ngày hoặc rất thường, sự quan trọng của
việc lãnh bí tích sám hối một cách đều đặn, theo khả năng của mỗi người.[57]
Trước khi cho trẻ
em rước lễ lần đầu, luôn luôn phải cho chúng lãnh nhận bí tích sám hối và lời
xá giải.[58] Hơn
nữa, việc cho rước lễ lần đầu luôn luôn phải do một linh mục cử hành và không
bao giờ được làm ngoài thánh lễ. Cần chọn ngày thích hợp như các Chúa nhật sau
lễ Phục Sinh (từ Chúa nhật thứ 2 đến thứ 6) hay lễ trọng kính Mình Máu Thánh
Chúa hay các Chúa nhật “quanh năm”, vì ngày Chúa nhật được kể một cách hợp lý
là ngày của phép Thánh Thể.[59]
Khi cho rước lễ
xong, linh mục hoặc phó tế lau sạch đĩa thánh, chén thánh và bình thánh. Khi có
nhiều bình, có thể phủ kín chúng kỹ càng, linh mục hoặc phó tế sẽ làm sạch
chúng ngay sau thánh lễ, khi dân chúng đã ra về. Thầy giúp lễ có thể giúp linh
mục hoặc phó tế làm sạch các bình thánh trước khi xếp gọn chúng vào chỗ đã ấn định.[60]
6. VIỆC CHO RƯỚC LỄ
Linh mục chủ tế
có nhiệm vụ cho rước lễ, các linh mục đồng tế và các phó tế khác phụ giúp ngài.
Các tín hữu rước lễ liền sau khi linh mục chủ tế rước lễ.[61] Khi nào
các tín hữu rước lễ xong, thánh lễ mới được tiếp diễn.[62]
Cần nhớ rằng thừa
tác viên thông thường cho rước lễ là giám mục, linh mục và phó tế, vì các ngài
đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh[63]; do đó,
việc cho giáo dân rước lễ khi cử hành thánh lễ là thuộc quyền của các ngài.[64]
Khi số các thừa
tác viên có chức thánh hiện diện trong cử hành thánh lễ là đủ cho việc rước lễ,
thì không được phép cử các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ. Trong những
trường hợp này, những ai được cử cho một thừa tác vụ như thế, thì không được
thi hành tác vụ ấy. Vậy, phải dứt khoát bài trừ thái độ của các linh mục tuy có
mặt ở buổi cử hành lại không cho rước lễ, mà để cho giáo dân đảm nhận công việc
này. Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ chỉ có thể cho rước lễ trong trường
hợp không có linh mục hay phó tế, khi linh mục bị ngăn trở vì bệnh tật, vì lớn
tuổi hay vì một lý do khác nghiêm trọng, hay nữa khi số tín hữu đến rước lễ quá
đông, có thể kéo dài quá đáng việc cử hành thánh lễ.[65]
Nên cho các tín hữu
rước lễ với những bánh đã được truyền phép trong thánh lễ ấy, để việc rước lễ tỏ
ra rõ ràng hơn là một sự tham dự vào hy tế đang cử hành.[66] Cần phải
nhắc nhở người tín hữu có thái độ tôn kính khi rước lễ, nhất là theo đúng cách
thức mà Hội đồng Giám mục quy định.[67]
Không được từ chối
không cho một người tín hữu rước lễ khi người này đã được chuẩn bị một cách hợp
lệ và không bị giáo luật cấm nhận lãnh bí tích.[68] Như vậy,
tất cả các người Công giáo đã chịu phép rửa, mà không bị ngăn trở bởi giáo luật,
thì phải được cho rước lễ. Do đó không được phép từ chối không cho một tín hữu
rước lễ, chỉ vì, như ví dụ, người ấy muốn rước lễ quỳ gối hay đứng.[69]
Khi cho rước lễ bằng
tay, thừa tác viên cần bảo đảm người tín hữu rước lễ tại chỗ, không được đem về
chỗ ngồi để tránh dịp gây xúc phạm.[70] Phải duy
trì việc dùng đĩa hứng khi cho các tín hữu rước lễ, để tránh bánh thánh, hay một
mảnh bánh thánh, rơi xuống đất.[71]
Các tín hữu không
được phép tự tay cầm lấy bánh đã được truyền phép hay chén thánh, lại cũng
không được để họ chuyền tay nhau.[72] Vả
lại, về vấn đề này, phải chấm dứt sự lạm dụng sau đây: trong thánh lễ hôn phối,
đã xảy ra trường hợp đôi tân hôn cho nhau rước lễ.[73]
Người giáo dân đã
rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong cùng ngày đó, nhưng chỉ ở
trong cử hành thánh lễ mà họ tham dự, ngoại trừ quy định ở điều 921 §2 của giáo
luật.[74]
Cần phải dứt
khoát bài trừ việc phân phát những bánh chưa truyền phép hay những đồ vật khác
có thể ăn được hay không ăn được giống như khi rước lễ, xảy ra trong hoặc trước
khi cử hành thánh lễ. Quả nhiên, điều đó không hợp với truyền thống của nghi lễ
Rôma, và có nguy cơ làm tâm trí các tín hữu lẫn lộn về giáo lý về bí tích Thánh
Thể của Giáo Hội.[75]
7. VIỆC RƯỚC LỄ DƯỚI HAI HÌNH
Để biểu lộ rõ
ràng hơn cho các tín hữu về tính viên mãn của dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể, giáo
dân cũng được rước lễ dưới hai hình trong những trường hợp mà các sách phụng vụ
đã dự liệu, với điều kiện trước đó phải luôn luôn giảng dạy cách thích hợp về
các nguyên tắc tín lý đã được Công đồng chung Trentô ấn định trong lãnh vực
này.[76]
Để cho giáo dân
rước lễ hai hình, phải để ý một cách thích hợp đến các hoàn cảnh, mà việc đánh
giá trước tiên là thuộc quyền Giám mục giáo phận. Phải tuyệt đối loại bỏ việc
này khi có một nguy cơ, dù là rất nhỏ, xúc phạm đến Mình Máu Thánh Chúa.[77]
Khi cho giáo dân
rước Máu Thánh với chén thánh, cần tránh nguy cơ còn lại quá nhiều cần phải rước
cuối buổi cử hành.[78]
Ngoài việc phải biết rõ nguồn gốc và phẩm chất của rượu, việc cho giáo dân rước
lễ hai hình còn cần phải có những thừa tác viên cho rước lễ được huấn luyện đầy
đủ, cũng như tránh tình trạng có nhiều giáo dân từ chối rước Máu Chúa với chén
thánh, vì như vậy sẽ làm mờ nhạt dấu chỉ hiệp nhất.[79]
Trong những cách
thức được cho phép khi rước lễ hai hình, có thể rước Máu Chúa Kitô hoặc bằng
cách uống trực tiếp với chén thánh, hoặc bằng cách chấm Mình Thánh vào Máu
Thánh, hoặc dùng ống hút hay một cái muỗng,[80] luôn duy
trì cách cho rước lễ bằng cách chấm. Tuy nhiên, cần lưu ý phải dùng những bánh
lễ không được quá mỏng, cũng không quá nhỏ, và người rước lễ phải nhận Thánh Thể
do vị linh mục trao trực tiếp vào miệng.[81]
Nếu dùng nhiều
chén thánh, thì cần có một chén thánh chính lớn hơn, nổi bật hơn so với những
chén phụ. Khi đã truyền phép, không được sang Máu thánh từ chén này qua chén
khác.[82]
Cần tôn trọng
Mình Máu Thánh Chúa. Khi cử hành thánh lễ, Máu Thánh Chúa Kitô có thể còn lại
phải được chính linh mục hay, theo quy tắc, một thừa tác viên khác rước ngay
lúc ấy. Cũng vậy, Mình Thánh Chúa có thể còn lại, phải được linh mục rước tại
bàn thờ, hay được đem cất vào một nơi dành để lưu giữ Mình Thánh Chúa.[83]
8. LỄ PHỤC CỦA CÁC THỪA TÁC VIÊN TRONG THÁNH LỄ
Cần phải tuân thủ
nghiêm ngặt những quy định liên quan đến lễ phục, nhằm diễn tả cách hiệu quả và
rõ ràng đặc tính của các mầu nhiệm đức tin được cử hành, và, do đó, ý nghĩa của
đời sống Kitô giáo đang tiến triển qua tiến trình của năm phụng vụ.[84] Mặc
đúng lễ phục còn góp phần làm tăng vẻ đẹp của hành động phụng vụ.[85] Lễ
phục chung cho các thừa tác viên là áo trắng dài (alba) được sợi dây nhỏ buộc ôm sát vào thắt lưng, trừ khi nó được
may vừa vặn với thân hình mà không cần có dây buộc. Phải quàng khăn vai trước
khi mặc áo alba nếu áo này không hoàn
toàn phủ kín áo thường quanh cổ.[86]
Ngoài ra, linh mục
chủ tế, để cử hành thánh lễ hay các hành động thánh khác liên quan trực tiếp với
thánh lễ, mặc áo lễ (casula), trừ trường
hợp có dự trù một lễ phục khác mặc trên chồng lên áo alba và dây stola.[87]
Cũng thế, khi linh mục mặc áo lễ, ngài đừng bỏ không mang dây stola.[88]
Ngoại trừ vị chủ
tế phải luôn luôn mặc áo lễ theo màu ấn định, Sách lễ Rôma cho quyền các linh mục
đồng tế trong thánh lễ khỏi mặc áo lễ, mà chỉ mang dây stola trên áo alba,[89] ví
dụ như trong trường hợp các vị đồng tế quá đông và không có đủ lễ phục. Nhưng nếu
có thể tiên liệu một trường hợp như thế, phải cố gắng hết sức cho có đủ lễ phục.
Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể, khi cần, mặc áo lễ màu trắng. Về phần
còn lại, các ngài phải tuân thủ các quy tắc khác của các sách phụng vụ.[90]
Lễ phục phụng vụ
riêng của phó tế là áo dalmatica mặc
ngoài áo alba và dây stola. Để tôn trọng một truyền thống cao
quý của Giáo Hội, việc không dùng quyền khỏi mặc áo dalmatica là điều đáng làm.[91]
Không được cử
hành thánh lễ mà không mặc lễ phục phụng vụ, hay chỉ mang dây stola trên áo thụng của tu viện, hay
trên áo tu sĩ thường, hay nữa trên áo thường.[92]
Thông thường “các
linh mục hiện diện trong cử hành thánh lễ nên thi hành chức vụ thuộc Chức Thánh
của mình, ngoại trừ những khi có một lý do chính đáng miễn cho họ làm thế, và
do đó họ nên mặc y phục phụng vụ mà đồng tế. Nếu không, họ mang áo surplis trên áo soutane.”[93] Ngoại
trừ những trường hợp rất đặc biệt khi có lý do chính đáng, không cho phép họ
tham dự thánh lễ, mà vẻ bề ngoài như giáo dân.[94]
KẾT LUẬN
Nếu không quan
tâm chú ý tuân thủ theo các quy tắc phụng vụ, người mục tử lẫn giáo dân rất dễ
đi đến những lạm dụng. Những lạm dụng trong các cử hành phụng vụ nói chung và
thánh lễ nói riêng là điều rất nghiêm trọng, bởi vì chúng vi phạm đến bản tính
của phụng vụ và của các bí tích, và đồng thời cũng vi phạm đến truyền thống và
uy quyền của Giáo Hội. Việc lạm dụng như vậy còn có thể dẫn đến những sai lạc
liên quan đến đức tin và giáo lý, bởi vì mối liên lạc mật thiết giữa lex orandi, lex credendi. Thậm chí, nguy
hiểm hơn, khi ở trong một vài nơi, những việc làm sai trái trong lãnh vực phụng
vụ đã trở nên một tập quán quen thuộc.[95] Chúng thường
thường được dán những nhãn mác là canh tân, đại kết, thích nghi... một cách thiếu
hiểu biết,[96] hoặc
người ta cho rằng những điều đó mang lại lợi ích cho dân chúng. Nhưng thật ra,
mầu nhiệm Thánh Thể quá cao trọng, “đến nỗi không ai được cảm thấy tự do hành động
cách tuỳ tiện và xem nhẹ tính chất thiêng thánh và chiều kích phổ quát của mầu
nhiệm này.”[97]
Thật vậy, những
việc làm sai trái trong cử hành phụng vụ không giúp ích gì trong việc canh tân
phụng vụ, hay đáp ứng lòng đói khát Thiên Chúa của dân chúng. Nhưng trái lại,
chúng làm tổn hại “tính cách duy nhất thuộc về bản chất của nghi chế Rôma,[98] gây
chia rẽ trong việc cử hành, gây ra sự bấp bênh về mặt giáo lý, sự nghi ngờ và
gương mù trong dân Thiên Chúa, đồng thời cũng gây ra nhiều sự chống đối mãnh liệt
gây xáo trộn và làm buồn lòng rất nhiều tín hữu.[99] Do đó, rõ
ràng rằng những việc làm sai trái này chủ yếu phát xuất từ sự thiếu hiểu biết lẫn
thái độ xem thường, là những điều không thể nào được chấp nhận, và chúng cần phải
được chấm dứt. Thay vào đó, người mục tử lẫn người giáo dân cần phải tuân thủ
nghiêm ngặt những quy định của Giáo Hội liên quan đến thánh lễ, nhờ đó, thánh lễ
thực sự trở thành bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc
vượt qua, để người lãnh nhận Đức Kitô được tràn đầy vinh quang và đón nhận bảo
chứng cho vinh quang đời sau.[100]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu của Huấn quyền
– Công đồng Vatican II. Bản dịch của Ủy
ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn
giáo. Hà Nội 2012.
– Bộ Giáo luật 1983. Bản dịch của Hội đồng
Giám mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn giáo. Hà Nội 2007.
– BỘ PHỤNG TỰ VÀ
KỶ LUẬT bí tích. Huấn thị Redemptionis
Sacramentum, về một số điều phải tuân thủ hay phải xa lánh liên quan đến phép
Thánh Thể Chí Thánh (25.3.2004). Bản
dịch Việt Ngữ của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Third Instruction on the Correct Implementation of the Constitution on
the Sacred Liturgy. Truy cập ngày 22.9.2015; http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/HuanThi/RedemptionisSacramentum.htm
– GIOAN PHAOLÔ
II. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia. Truy
cập ngày 2.11.2015; http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/Ecclesia-De-Eucharistia/MainMenu.htm
– General Instruction Of The Roman Missal (Quy
chế Tổng quát Sách lễ Rôma), ấn bản 2002. Truy cập ngày 2.11.2015; http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20030317_ordinamento-messale_en.html
Sách tham khảo
– MCNAMARA,
EDWARD. Giải đáp thắc mắc phụng vụ. Tập
1. Nguyễn Trọng Đa dịch. Nhà xuất bản Phương Đông 2013. Giải đáp thắc mắc phụng vụ. Tập 2. Nguyễn Trọng Đa dịch. Nhà xuất bản
Phương Đông 2015.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 95 (tháng 7 & 8 năm 2016)
[1] x. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp
Ecclesia de Eucharistia, các số 3, 8, 9.
[4] Công đồng VATICAN II, Hiến
chế Sacrosanctum Concilium, số 7.
[5] x. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp
Ecclesia de Eucharistia, số 52.
[7] Bộ Giáo luật, điều 932; x. Bộ Phụng Tự, Huấn thị Liturgicae instaurationes, số 9.
[8] x. Bộ Giáo luật, điều 932; x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 108–109.
[9] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 77.
[10] Bộ Giáo luật, điều 902.
[12] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 120.
[15] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 327–333; Huấn
thị Redemptionis Sacramentum, số 117.
[16] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 333.
[17] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 118.
[19] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 363.
[21] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 60.
[23] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 372.
[24] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 74.
[26] x. Bộ Giáo luật, điều 903.
[27] x. Công đồng VATICAN II, Hiến
chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, số 36, § 1; Bộ Giáo luật, điều
928.
[28] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 114.
[29] x. BỘ PHỤNG TỰ, Thư riêng liên quan đến việc thay đổi chủ tế,
trích lại trong EDWARD MCNAMARA, Giải
đáp thắc mắc phụng vụ, tập 1, Nguyễn Trọng Đa dịch, Nhà xuất bản Phương
Đông 2013, trang 130–131.
[30] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 115.
[31] x. Bộ Giáo luật, điều 905, 945–958.
[32] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 56.
[33] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 61–62; Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản
2002, số 57.
[34] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 63.
[35] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 65 – 66.
[36] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 64–66.
[39] x. Ibid., số 48, đồng thời x. Bộ
Giáo luật, điều 924 § 2.
[40] x. Bộ Kỷ luật bí tích, Huấn
thị Dominus Salvator noster, số 1.
[41] x. Bộ Giáo luật, điều 924, §3.
[42] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 50.
[44] Bộ Giáo luật, điều 927.
[45] Bộ Bí tích và Phụng tự, Huấn
thị Inaestimabile donum, số 5, trích
trong Huấn thị Redemptoris Sacramentum, số
51.
[46] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 52.
[47] x. Ibid., các số 53–54.
[48] x. Ibid., số 56; GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 39.
[49] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 55.
[52] x. Công đồng VATICAN II, Hiến
chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, số 55; Quy chế Tổng quát
Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 158–160, 243–244, 246.
[53] x. Ibid., các số 237–249, 85, 157.
[54] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 98.
[55] x. Hội đồng Giáo hoàng về Giải
thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 3/7/1999. Trích lại
trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số
99.
[56] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số 83–84.
[57] x. Thánh Bộ Nghi lễ, Huấn thị
Eucharisticum mysterium, số 35, được
trích lại trong Huấn thị Redemptionis
Sacramentum, số 86.
[58] x. Bộ Giáo luật, điều 914.
[59] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 87.
[60] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 163, 183, 192; số 119.
[61] x. Công đồng VATICAN II, Hiến
chế về phụng vụ Sacrosanctum Concilium, số
55.
[62] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 88.
[63] x. Bộ Giáo luật, điều 910, § 1.
[64] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 154.
[65] 72 (1980) p. 336; Hội đồng
Giáo hoàng về Giải thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium,
11.7.1984, trích lại trong số 157–158.
[66] x. Công đồng VATICAN II, Hiến
chế về phụng vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, số 55; Thánh Bộ Nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, số 31; Quy
chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 85, 157, 243.
[67] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 160.
[68] Bộ Giáo luật, điều 843 § 1; x. điều 915.
[69] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 91.
[71] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 118; x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 93.
[72] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 160.
[73] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 94.
[74] Bộ Giáo luật, điều 917; Đồng thời x. Hội đồng Giáo hoàng về Giải
thích các văn bản luật, Responsio ad propositum dubium, 11.7.1984 (trích lại
trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số
95).
[75] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 96.
[76] x. Công đồng VATICAN II, Hiến
chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum
Concilium, số 55; Quy chế Tổng quát
Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 282–283.
[77] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 283.
[79] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 102.
[80] Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 245.
[81] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, các số
103–104.
[82] x. Ibid., các số 105–106.
[83] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 163, 284.
[88] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 123.
[89] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 209.
[90] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 214.
[91] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, số 338.
[92] x. Bộ Phụng tự, Huấn thị Liturgicae instaurationes, số 8c , trích
lại trong số 126.
[93] x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, ấn bản 2002, các số 114, 116–117.
[94] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 217.
[95] x. Ibid., các số 4, 6, 10.
[96] x. Ibid., các số 7–9.
[97] GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, số 52.
[98] Công đồng VATICAN, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 38.
[99] x. Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 11.
[100] Công đồng VATICAN, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, số 47.