Tiếng Việt nói và viết ngày nay sử dụng bảng chữ cái tiếng Việt dựa trên hệ chữ Latinh để biểu thị các từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán ( Hán-Việt , hoặc Hán Việt ), các từ tiếng Việt bản địa ( thuần Việt ) và các từ vay mượn nước ngoài khác. Văn học lịch sử Việt Nam được các học giả viết bằng chữ Nôm và trước đó là chữ Hán .
Trong thời cổ đại, tổ tiên của người Việt Nam được coi là những người nói ngôn ngữ Proto-Austroasiatic (còn gọi là Proto-Mon–Khmer ), có thể bắt nguồn từ nền văn hóa Đông Sơn cổ đại. Các nhà ngôn ngữ học hiện đại mô tả tiếng Việt đã mất đi một số đặc điểm hình thái và âm vị học Proto-Austroasiatic mà tiếng Việt gốc vốn có. Điều này đã được ghi nhận trong sự phân tách ngôn ngữ của tiếng Việt khỏi tiếng Việt-Mường khoảng một nghìn năm trước. Từ năm 111 trước Công nguyên cho đến thế kỷ 20, văn học Việt Nam được viết bằng Văn ngôn (Cổ điển Trung Quốc hoặc Văn học Trung Quốc), sử dụng Chữ Hán (chữ Hán) và sau đó là chữ Nômtừ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20 (chữ Hán phỏng theo tiếng Việt bản ngữ).
Chữ Nôm bắt đầu được sử dụng từ thế kỷ thứ 8 trong văn xuôi và thơ ca bằng tiếng Việt và đã được sử dụng rộng rãi vào thế kỷ thứ 10. Nó được chính thức hóa dưới thời nhà Hồ và Tây Sơn. Chữ Nôm sử dụng chữ Hán cho từ vựng Hán-Việt và một bộ ký tự được điều chỉnh để phiên âm tiếng Việt bản địa, với cách phát âm tiếng Việt gần giống với tiếng Trung Hoa. [5] Hai chữ viết đồng thời tồn tại cho đến thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp khi bảng chữ cái Latinh chữ quốc ngữ dần dần trở thành phương tiện viết văn học hiện nay. [6]Trong quá khứ, các văn bản tiếng Phạn và Ấn Độ cũng đóng góp vào văn học Việt Nam hoặc từ những tư tưởng tôn giáo từ Phật giáo Đại thừa , hoặc từ ảnh hưởng lịch sử của Champa và Khmer.
Thuật ngữ
Trong tiếng Việt, các ký tự Trung Quốc có nhiều tên khác nhau, nhưng tất cả đều đề cập đến cùng một chữ:
- Chữ Hán (?漢): "chữ Hán", cùng nghĩa với Hán tự.
- Hán tự (漢字): "chữ/chữ Hán"; cũng được phát âm là Hanzi trong tiếng Trung tiêu chuẩn, Hanja trong tiếng Hàn và Kanji trong tiếng Nhật .
- Hán văn (漢文): "Hán văn" hay "Hán văn", còn được phát âm là Hanwen trong tiếng Trung Quốc chuẩn , Hanmun trong tiếng Triều Tiên , và Kanbun trong tiếng Nhật . Ý nghĩa tiếng Trung Quốc cổ điển.
- Chữ Nho (?儒 "chữ Nho").
Từ chữ ? trong tiếng Việt (ký tự, chữ viết, chữ viết, chữ cái) bắt nguồn từ cách phát âm tiếng Trung của từ 字 ( tiếng Quan thoại hiện đại trong tiếng Hán Việt : zì), có nghĩa là 'ký tự'.
Hán Việt (tiếng Việt: từ Hán Việt詞漢越 "Từ Hán Việt") chỉ những từ cùng nguồn gốc hoặc những thuật ngữ mượn từ tiếng Hán sang tiếng Việt, thường giữ nguyên ngữ âm của tiếng Hán gốc du nhập vào tiếng Việt. Về cú pháp và từ vựng, ngôn ngữ Hán Việt này không khác gì tiếng Hán của Bắc Kinh cũng như tiếng Latinh của Anh thời trung đại và tiếng Latinh của La Mã. Ảnh hưởng chủ yếu của nó đến từ Hán văn Việt Nam ( Chữ Hán ).
Thuật ngữ Chữ Nôm (?喃 "Nam tự") đề cập đến hệ thống phiên âm trước đây cho các văn bản tiếng Việt bản ngữ, được viết bằng cách sử dụng hỗn hợp các chữ Hán gốc và các chữ Nôm do địa phương tạo ra không tìm thấy trong tiếng Trung Quốc để thể hiện ngữ âm các từ tiếng Việt địa phương. và âm thanh của chúng. Tuy nhiên, bộ chữ cho chữ Nôm rất phong phú, chứa tới 37.000 ký tự, và nhiều ký tự tùy tiện trong cấu trúc và không thống nhất trong cách phát âm.
Hán Nôm (漢喃 " chữ Hán và chữ Nôm ") có thể có nghĩa là gộp cả chữ Hán và chữ Nôm như trong bộ phận nghiên cứu của Viện Hán Nôm Hà Nội , hoặc chỉ những văn bản được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, hoặc một số Văn bản chữ Hán song song với bản dịch chữ Nôm. [18] Có sự chồng chéo đáng kể về chính tả giữa chữ Hán và chữ Nôm và nhiều ký tự được sử dụng bằng cả chữ Hán và chữ Nôm với cùng một cách đọc. [19] Có thể hiểu đơn giản nhất chữ Nôm là phần mở rộng của chữ Hán trong tiếng Việt. Thuật ngữ Chữ Quốc ngữ ("chữ quốc ngữ" hay ?國語) có nghĩa là tiếng Việt ở dạng chữ viết được La tinh hóa hoặc phiên âm.
Lịch sử chữ viết Việt Nam
1. Chữ Hán
Chữ Hán cụ thể được gọi là Chữ Hán (漢), Chữ Nho (儒) hoặc Hán tự (漢字, lit. Hán tự ) trong tiếng Việt. Chữ Hoa hay Tiếng Hoa thường được dùng để mô tả tiếng Quan Thoại, cũng như Tiếng Tàu cho tiếng Trung Quốc nói chung. Có thể thậm chí một nghìn năm trước đó, vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, giới tinh hoa Yue ở khu vực ngày nay là miền nam Trung Quốc có thể đã áp dụng một hình thức viết dựa trên các ký tự Trung Quốc để ghi lại các thuật ngữ từ ngôn ngữ của họ. Trong thời kỳ cai trị của Trung Quốc từ năm 111 trước Công nguyên đến năm 905 sau Công nguyên, các ký tự Trung Quốc đã được sử dụng làm chữ viết chính thức của khu vực. Các văn bản địa phương viết bằng tiếng Hán có lẽ cũng bao gồm một số ký tự được điều chỉnh để thể hiện các âm nguyên Việt-Mường, thường là tên riêng hoặc địa danh Việt mà không có từ tiếng Hán tương đương. Theo một số học giả, việc áp dụng Chữ Hán hay Hán tự đã được bắt đầu bởi Shi Xie (137–226), nhưng nhiều người không đồng ý. Chữ viết hoàn toàn bằng tiếng bản địa đầu tiên của người Việt được phiên âm bằng chữ Hán bắt đầu vào cuối đời Đường, khoảng thế kỷ thứ 9 bởi Liêu Hữu Phương.
Những tác phẩm này lúc đầu không thể phân biệt được với các tác phẩm cổ điển Trung Quốc đương thời được sản xuất tại Trung Quốc, Hàn Quốc hoặc Nhật Bản. Chúng bao gồm những bài thơ đầu tiên bằng chữ Hán của nhà sư Khuông Việt (匡越), Nam quốc sơn hà (南國山河), và nhiều kinh sách Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
Đến năm 1174, Chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức của triều đình, chủ yếu được sử dụng bởi chính quyền và giới trí thức, và tiếp tục đóng vai trò này cho đến giữa thế kỷ 19 dưới thời Pháp thuộc khi hệ thống chữ viết truyền thống bị bãi bỏ để thay thế bằng chữ phiên âm . quốc ngữ .
Cách đọc Hán Việt của Chữ Hán
Ở Việt Nam, các văn bản Chữ Hán được đọc theo cách đọc của văn bản Trung Quốc, được gọi là Hán văn (漢文), tương tự như on-yomi của Trung Quốc trong kanbun của Nhật Bản (漢文), hoặc cách phát âm đồng hóa trong hanmun của Hàn Quốc ( 한문 /漢文). Điều này xảy ra cùng với sự truyền bá từ vựng Hán Việt sang tiếng Việt bản ngữ, và tạo ra một phương ngữ Hán Việt. Nhà Hán học Edwin G. Pulleyblank là một trong những nhà ngôn ngữ học đầu tiên tích cực sử dụng "Hán-Việt" để khôi phục các lịch sử trước đó của Trung Quốc.
Xem thêm:Tóm tắt lịch sử triều đại nhà Hán (206 TCN - 220 CN)
2. Chữ Nôm
Từ thế kỷ 13, sự thống trị của chữ Hán bắt đầu bị thách thức bởi chữ Nôm , một hệ thống chữ viết khác dựa trên chữ Hán để phiên âm các từ tiếng Việt bản địa. Những chữ này thậm chí còn khó hơn cả chữ Hán. Chữ Nôm vay mượn chữ Hán về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa để sáng tạo ra chữ mới.
Trong khi được thiết kế cho các từ tiếng Việt bản địa, chữ Nôm yêu cầu người dùng phải có kiến thức khá về chữ Hán, và do đó chữ Nôm được sử dụng chủ yếu cho các tác phẩm văn học của giới tinh hoa văn hóa (chẳng hạn như thơ của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương), trong khi hầu hết các bài viết và tài liệu chính thức khác tiếp tục được viết bằng tiếng Trung Quốc cổ điển cho đến thế kỷ 20.
Mặc dù về mặt kỹ thuật khác với chữ Hán, nhưng đơn giản nhất là coi chữ Nôm như một dạng bắt nguồn của chữ Hán cho tiếng Việt bản ngữ, với những sửa đổi và những ký tự mới do người Việt đặt ra. Cùng nhau, chúng được gọi là Hán Nôm. Cuối cùng, chữ Nôm được coi là một phương pháp kém hơn để cho phép giao tiếp đại chúng và phiên âm tiếng Việt, với chữ Latinh được coi là thực tế hơn.
Trích: Sáu dòng đầu của bài thơ Truyện Kiều
3. Quốc Âm Tân Tự
Quốc Âm Tân Tự (Chữ Nôm: 國音新字), nghĩa đen là "chữ viết mới của quốc âm (ngôn ngữ)", là một hệ thống chữ viết cho tiếng Việt được đề xuất vào giữa thế kỷ 19. Hai văn bản viết về loại chữ này (mỗi văn bản bốn trang) hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Một bản cũ không ghi tên, và một bản gần đây hơn có tên là Quốc Âm Tấn Tự (國音新字). Văn bản Quốc Âm Tấn Tự không có thông tin nào cho biết cụ thể ngày tháng năm tác phẩm này được viết. Căn cứ vào lời tựa của tác phẩm, nét cuối của chữ “華” (Hoa) đã bị lược bỏ do kiêng đặt tên), có thể đoán rằng văn bản này được viết dưới thời vua Thiệu Trị (Hoàng đế). Mẹ của Thiệu Trị tên là "Hồ Thị Hoa" 胡氏華). Cuối lời nói đầu của văn bản có dòng “
Quốc Âm Tấn Tự là một loại chữ phiên âm được làm từ nét chữ Hán và chữ Nôm (tương tự Hiragana và Katakana của Nhật Bản hay Chú Âm Trung Quốc). Theo cách phát âm của tiếng Việt, có 22 chữ "căn tự" 幹字 và 110 chữ "chi tự" 枝字 ("cán" là thân, "chi" là cành, "tự" là chữ). Cán tự dùng để ghi phụ âm đầu, chi tự để ghi vần. Mỗi ký tự được đặt tên bằng một chữ có vần “ông” với phụ âm đầu là phụ âm đầu mà ký tự đó biểu thị, ví dụ chữ “đ” biểu thị phụ âm “đ” được đặt tên là “đông” (tương tự như ngày nay chữ Tiếng Việt gọi phụ âm “đ” là âm “đờ”). Quốc Âm Tấn Tử không phân biệt”
Tác giả Quốc Âm Tấn Tử đã dùng bốn loại nét: (一), (丨), (丶), (丿) (kể cả “㇏” là biến thể của “丶”) để tạo nét chữ. Mỗi ký tự (bao gồm tất cả các ký tự "thân cây" và "nhánh") có tổng cộng bốn nét. Hầu hết các ký tự chỉ sử dụng hai hoặc ba loại nét, nhưng tổng số nét là chính xác bốn.
Quốc Âm Tân Tự sử dụng cách chia “thanh điệu” truyền thống, các thanh điệu được chia thành bốn loại: “bình” 平, “thượng” 上, “khứ” 去, “nhập” 入. Mỗi loại lại được chia thành hai độ "âm" 陰 và "dương" 陽. Tổng cộng có tám âm:
- Âm bình hay yin ping陰平: là " thanh ngang " như cách gọi ngày nay.
- Dương Bình hay yang ping陽平: tức là Thanh Huyền như ngày nay.
- Âm thượng hay yin shang陰上: là " thanh hỏi như cách gọi ngày nay.
- Dương thượng hay dương thượng陽上: là “ thanh ngã như cách gọi ngày nay.
- Âm quá khứ hay âm qu陰去: là âm " thanh sắc " của những từ mà khi viết bằng
- Chữ Quốc ngữ không kết thúc bằng một trong bốn chữ cái "c", "ch", "p", "t “.
- Dương khứ hay yang qu陽去: là một từ "thanh trộng" mà khi viết theo hệ thống chữ Latinh thì không kết thúc bằng một trong bốn chữ cái "c", "ch", "p", "t ".
- Âm nhập hay yin ru陰入: là chữ " thanh sắ c" trong những từ mà khi viết theo hệ chữ Latinh sẽ kết thúc bằng một trong bốn chữ cái "c", "ch", "p", "t".
- Dương nhập hay dương hư ” 陽入: là một thanh nặng trong từ mà khi viết ra chữ quốc ngữ sẽ kết thúc bằng một trong bốn chữ cái “c”, “ch”, “p”, “t”.
Các âm có độ "âm/âm" được đánh dấu bằng một nửa vòng tròn nhỏ và các âm có độ "dương/dương" được đánh dấu bằng một dấu tròn nhỏ. Để biểu thị sự thanh thản, thanh điệu đặt cạnh “chân trái” của từ, có dấu thanh đặt cạnh “vai trái” của từ, có dấu thanh đặt cạnh “vai phải” của chữ. , có dấu thanh đặt cạnh "chân phải" của văn bản.
Quốc Âm Tân Tự có thể viết theo chiều dọc hoặc chiều ngang như chữ Hán và chữ Nôm, và là một bộ chữ phiên âm do chính người Việt sáng tạo ra (khi Chữ Nôm là chữ viết do người Việt sáng tạo thì Quốc Ngữ là một bộ chữ phiên âm do người Việt sáng tạo ra ) . người nước ngoài). Tiếc rằng Quốc Âm Tấn Tử ra đời không đủ thời gian để hoàn thành và phổ biến rộng rãi như Kana ở Nhật Bản, vì tình hình chính trị xã hội Việt Nam lúc bấy giờ quá phức tạp do sự suy yếu dần của nhà Nguyễn và đầu cuộc xâm lược của Pháp.
4. Chữ quốc ngữ
Tiếng Việt viết theo hệ chữ Latinh, gọi là Chữ quốc ngữ , là hệ thống chữ viết đang được sử dụng. Nó lần đầu tiên được phát triển bởi các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vào thế kỷ 17, dựa trên cách phát âm của ngôn ngữ và bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Trong 200 năm, chữ quốc ngữ chủ yếu được sử dụng trong cộng đồng Công giáo. Tuy nhiên, dưới thời chính quyền Pháp, bảng chữ cái đã được sửa đổi thêm và sau đó trở thành một phần của giáo dục bắt buộc vào năm 1910.
Trong khi đó, việc sử dụng chữ Hán cổ điển và chữ viết Chu Hán bắt đầu suy giảm. Vào thời điểm này, có một thời gian ngắn bốn hệ thống chữ viết cạnh tranh nhau ở Việt Nam; chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, chữ Pháp. [38] Mặc dù tờ báo chữ quốc ngữ được viết bằng chữ Latinh đầu tiên, Gia Định Báo , được thành lập vào năm 1865, những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng chữ Nôm cho đến sau Thế chiến thứ nhất.
Sau khi Pháp cai trị, chữ quốc ngữ đã trở thành ngôn ngữ viết ưa thích của phong trào độc lập Việt Nam.
Nhà báo Nguyễn Giang của BBC lưu ý rằng mặc dù các nhà truyền giáo Cơ đốc đầu tiên được cho là đã tạo ra bảng chữ cái tiếng Việt, nhưng những gì họ đã làm không phải là duy nhất hay khó khăn và sẽ được thực hiện sau này nếu không có họ nếu họ không tạo ra nó. Giang cho biết thêm rằng lý do chính của việc phổ biến mẫu tự Latinh trong triều Nguyễn (nhà nước bảo hộ An Nam và Bắc Kỳ của Pháp) là do những nỗ lực tiên phong của các trí thức từ Nam Kỳ thuộc Pháp kết hợp với các chính sách tiến bộ và khoa học của chính phủ. Chính phủ Pháp ở Đông Dương thuộc Pháp, đã tạo động lực cho việc sử dụng chữ Quốc ngữ lan rộng. Giang tuyên bố rằng Trường học Tự do Bắc Kỳ chỉ xóa bỏ sự kỳ thị đối với việc sử dụng chữ Quốc ngữcho giới tinh hoa triều Nguyễn, nhưng không thực sự phổ biến nó.
Một lý do quan trọng tại sao chữ Latinh trở thành hệ thống chữ viết tiêu chuẩn của Việt Nam nhưng không làm như vậy ở Campuchia và Lào, cả hai đều bị Pháp thống trị trong một khoảng thời gian tương tự và tồn tại trong cùng một khuôn khổ thuộc địa có liên quan đến thực tế là Các hoàng đế nhà Nguyễn đã rất khuyến khích việc sử dụng nó. Theo nhà sử học Liam Kelley trong tác phẩm "Cuộc cách mạng giáo dục của Hoàng đế Thành Thái" năm 2016, cả người Pháp và các nhà cách mạng đều không có đủ quyền lực để truyền bá việc sử dụng chữ Quốc ngữ xuống tận cấp làng. Theo sắc lệnh của triều đình vào năm 1906, cha mẹ Hoàng đế Thành Thái có thể quyết định liệu con cái họ sẽ theo học chương trình Hán văn (漢文) hay Nam âm(南音, "Nam âm", tên gọi thời Nguyễn của chữ Quốc ngữ ). Nghị định này được ban hành cùng lúc với những thay đổi xã hội khác, chẳng hạn như việc cắt tóc dài của nam giới, đang diễn ra.
Do được giáo dục rộng rãi về chữ quốc ngữ, người Việt Nam không thông thạo chữ Hán hoặc từ gốc Hán không thể đọc được các văn bản tiếng Việt trước đó được viết bằng chữ Hán-Nôm. Viện Hán Nôm là trung tâm nghiên cứu học thuật quốc gia về văn học Hán Nôm. Mặc dù ở Việt Nam đã có những phong trào khôi phục Hán Nôm, thông qua giáo dục trong nhà trường hay sử dụng trong đời sống hàng ngày, nhưng hầu hết các bài thơ, văn tự cổ đều đã được dịch và chuyển sang chữ Quốc Ngữ, dẫn đến nhu cầu biết chữ Hán ngày càng tăng. -Chữ Nôm gần như lỗi thời. Tuy nhiên, nhiều người Việt Nam cảm thấy khó tách mình ra khỏi di sản Hán-Nôm của họ, và có thể vẫn cảm thấy có mối quan hệ mật thiết với chữ Hán.
Các văn bản tiếng Phạn thường được truyền lại và dịch sang tiếng Việt một cách gián tiếp từ các văn bản Trung Quốc thông qua các giáo lý tôn giáo từ các khu vực Phật giáo, hoặc trực tiếp, chẳng hạn như từ Champa và Khmer. Một trong những địa danh quan trọng nhất vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay là khu đền thờ Mỹ Sơn cổ kính với những bia ký bằng tiếng Phạn và Chămpa . Bia ký Võ Cạnh cũng là bia ký tiếng Phạn lâu đời nhất từng được tìm thấy ở Đông Nam Á , một di sản của các vương quốc Lâm Ấp , Champa và Phù Nam. Cụm từ tiếng Việt hiện đại với cụm từ tiếng Phạn được biết đến nhiều nhất là từ câu thần chú tôn giáo phổ biến của Phật giáo नमोऽमिताभाय/ Namo Amitābhāya ( Nam Mô A Di Đà Phật / 南無阿彌陀佛), có nghĩa là, "Kính mừng Đức Phật Vô Lượng Quang" (dịch trực tiếp từ tiếng Phạn) hoặc " Con xin đảnh lễ vô lượng đấng Giác ngộ” / “Con quy y vô lượng đấng Giác ngộ”. Ngoài ra, nhiều địa danh ở Việt Nam có tên gốc Khmer, từ khi vùng đất này còn dưới thời Phù Nam và Chân Lạp, v.v. Ví dụ, ស្រុកឃ្លាំង Srok Khleang được viết là Sóc Trăng trong tiếng Việt. Do đó, có một số ảnh hưởng của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
5. Chữ Tai Dam
Chữ Thái Việt là chữ abugida được người Thái Đam và các dân tộc nói tiếng Thái Tây Nam khác ở miền Bắc Việt Nam sử dụng từ thế kỷ 16 đến nay, bắt nguồn từ chữ Fakkham của người Thái Lan Na.
6. Chữ Jawi
Từ đầu thế kỷ 18, các cộng đồng người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu sử dụng chữ Jawi có nguồn gốc từ Ả Rập. Ngày nay, người Chăm phương Tây (người Chăm ở Campuchia và đồng bằng sông Cửu Long mà đa số là người Hồi giáo dòng Sunni) sử dụng cả hai bảng chữ cái Jawi và Latinh để viết ngôn ngữ của họ, so với người Chăm phương Đông chủ yếu theo đạo Hồi Bani và Balamon và vẫn sử dụng chữ viết Akhar Thrah (truyền thống) và bảng chữ cái Latinh.
Cách sử dụng chữ Hán và chữ Nôm hiện đại
Các chữ Hán riêng lẻ vẫn được các nhà thư pháp viết cho những dịp đặc biệt như Tết Việt Nam, Tết. Chúng vẫn hiện diện bên ngoài các ngôi chùa Phật giáo và vẫn được nghiên cứu cho các mục đích học thuật và tôn giáo.
Thư pháp Việt Nam (Thư pháp chữ Việt) đã đạt được thành công to lớn so với thư pháp Chữ Hán kể từ khi được giới thiệu vào những năm 1950.
Tuy nhiên, kể từ giữa những năm 1990, đã có sự hồi sinh trong việc dạy chữ Hán, cả chữ Hán và các chữ bổ sung được sử dụng trong chữ Nôm . Điều này nhằm tạo điều kiện cho việc nghiên cứu lịch sử lâu đời cũng như sự tổng hợp và thống nhất văn hóa của Việt Nam.
Đối với các nhà ngôn ngữ học, cách đọc Hán Việt của chữ Hán cung cấp dữ liệu cho việc nghiên cứu âm vị học lịch sử chữ Hán và tái cấu trúc cổ ngữ Hán.
Ngoài ra, nhiều người Việt Nam có thể học chữ Hán để học các ngôn ngữ khác như tiếng Trung, tiếng Nhật và đôi khi là tiếng Hàn. Điều này có thể giúp việc học các ngôn ngữ này dễ dàng hơn do có nhiều từ gốc Trung Quốc. Do đó, cuối cùng họ cũng thông thạo một số chữ Hán-Nôm .
Ý nghĩa của các ký tự đôi khi đi vào mô tả của phương Tây về Việt Nam, đặc biệt là kể từ khi Pháp cai trị. Ví dụ, tiểu thuyết gia EM Nathanson đề cập đến Chu Hán trong A Dirty Distant War (1987).
Chữ hỗn hợp
Nhiều tác phẩm của Chủ tích Hồ Chí Minh viết bằng thứ chữ Việt-Hán-Nôm hỗn hợp.
Chữ số Hindu-Ả Rập | nhân vật Trung Quốc | âm Hán Việt | Bính âmTrung Quốc (Quan thoại)để so sánh | Chữ Nômvàchữ Quốc ngữ hiện đại | |
---|---|---|---|---|---|
0 | 〇 | linh | linh | 空 | Không |
1 | 一 | Nhất | Yī | ? | MỘT |
2 | 二 | Nhị, nhì | Èr | ? | Hải |
3 | 三 | Tâm | san | ? | Ba |
4 | 四 | Tứ, tư | sì | ? | Bốn |
5 | 五 | Ngũ | wǔ | ? | Năm |
6 | 六 | lục | Lưu | ? | Sáu |
7 | 七 | Cái đó | Qī | ? | Vịnh |
số 8 | 八 | Con dơi | Ba | ? | Tám |
9 | 九 | Cửu | Jiǔ | ? | Cái cằm |
10 | 十 | thập | Shi | ? | Mười |
100 | 百 | Bách | bǎi | ? | Xe điện |
1000 | 千 | thiên | Càn | ? | Nghìn |
10.000 | 萬 | Vạn | Vạn | ? ? | Mười Nghìn |
1.000.000 | 百萬 | Bách vạn | Bǎi Wàn | 兆 | Triệu |
Từ cách đọc Hán Việt, một số từ đã kết thúc bằng tiếng Việt bản ngữ thông dụng. Ví dụ, "nhất" (一) có nghĩa là "thứ nhất" và "tứ" (四) có nghĩa là thứ tư trong tiếng Việt bản ngữ. Tiếng Việt hiện đại có thể được coi là một phiên âm hoặc phiên âm của các từ Hán-Nôm phổ biến, từ đó đã được sử dụng làm phương tiện ngôn ngữ chính ở Việt Nam.
Từ Chữ Hán đầu tiên cho đến Chữ Quốc ngữ mà người dân Việt nam đang sử dụng ngày nay, Chữ Quốc ngữ (tiếng Việt) được đánh giá là mẫu chữ viết đẹp và hoàn thiện nhất trong tất cả các mẫu chữ mà người Việt đã từng sử dụng, cùng với bề dày lịch sử của sự ra đời hình thành và phát triển lâu dài, trường kỳ của chữ viết của Việt nam. Là món quà tặng ý nghĩa cho cầu nối thông tin của nhân loại.
No comments:
Post a Comment