Tuổi thơ Salomon
Salomon (theo tiếng Latinh; tiếng Hebrew: שְׁלֹמֹה, Shlomoh; tiếng Hy Lạp: Σολομών Solomōn), hay Solomon, cũng được gọi là Jedidiah (Hebrew יְדִידְיָהּ), theo Kinh Thánh 1 Vua 1-11, 1 Sử biên niên 28-29, 2 Sử biên niên 1-9. Ông là con trai thứ hai của vua Đavít và bà Bát Seba, góa phụ của ông Urigia bị giết chết theo lệnh của vua Đavít. Người con đầu (đứa con của ngoại tình) đã chết trước khi Salomon ra đời.
Salomon sinh TCN tại Giêrusalem và mất cũng tại Giêrusalem vào khoảng năm 931 TCN. Ông là nhà chính trị gia, nhà cầm binh lỗi lạc đồng thời ông cũng là một vị quân vương xuất sắc của Vương quốc Ítraen thống nhất. Vương quốc Ítraen của ông, lúc đó, trải dài từ ven sông Êu-phơ-rát trên miền Bắc, vùng Lưỡng Hà, xuống đến tận vùng cực Bắc của Ai Cập, phía Nam.
Lên ngôi
Salomon không phải là con trưởng của vua Đavít. Ông là con thứ mười. Nhưng Đavít hứa với Bát Seba rằng Salomon sẽ kế vị mình.
Khi Ađônigia tự tuyên bố mình là vua: “Còn hoàng tử A-đô-ni-gia, con của bà Khác-ghít, thì tự xưng vương mà rằng: “Ta sẽ làm vua!” Chàng sắm xe, ngựa, và kiếm được năm mươi người chạy đàng trước mình.” (1 Vua 1:5) bà Bát Seba và tiên tri Nathan lập kế hoạch để đưa Salomon lên ngôi báu (x. 1Vua 1, 11-27)
Tên Ađônigia có nghĩa là “Chúa của tôi là Adonai”. Ông là người con thứ tư của Đavít (x. 2 Sam 3,4), nhưng sau khi Amnon và Ápsalom chết, thì xem ra ông là người kế vị.
Nghe tin Ađônigia đang rình rang tiếm quyền, Đavít truyền cho gia nhân mang cậu Salomon, lúc đó đang rất trẻ tuổi, tới suối Ghikhôn để các tư tế phong vương cho cậu. Sau đó dưới sự xếp đặt của “tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, cùng với quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi đi xuống, họ để hoàng tử Sa-lô-môn cỡi con la cái của vua Đa-vít và đưa hoàng tử xuống Ghi-khôn. Tư tế Xa-đốc lấy sừng đựng dầu từ Nhà Lều và xức cho Sa-lô-môn. Người ta đã rúc tù và; toàn dân hô: “Vua Sa-lô-môn muôn năm!” Toàn dân tiến lên theo sau vua. Dân chúng thổi sáo và reo vui đến nỗi đất cũng chuyển động vì tiếng hò la của họ.” ( 1Vua 1,38-40)
Vua Salomon lên ngôi trị vì khoảng năm 970 TCN đến 931 TCN. Một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân Ítraen, trước đó và sau này không một triều đại nào bằng.
Sự khôn ngoan của vua Salomon
Một lần lên Ghíp-ôn tế lễ cho Đức Chúa, trong giấc ngủ, Đức Chúa đến với vua Salomon và đề nghị ông xin Ngài một hồng ân. Salomon trả lời: “Con chỉ là một đứa trẻ nít... Vậy xin Ngài ban cho tôi tớ Ngài khôn ngoan hiểu biết để phân xử Dân Ngài ...”.
Lời yêu cầu đó đẹp lòng Đức Chúa. Đức Chúa phán với cậu thanh niên Salomon : “Vì con không xin được giầu có hay vinh quang, nhưng chỉ xin điều ích lợi cho toàn dân, vậy Ta sẽ ban cho con không những một trí khôn linh tuệ vô tiền khoáng hậu ... mà còn cho con giầu có và vinh quang chưa có vua chúa nào sánh bằng.” (1 Vua 3,7-13) Nhưng kèm một điều kiện: “Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Đa-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” (1 Vua 3,14)
Thánh Kinh trình thuật Giấc mộng ở Ghíp-ôn:
“Vua đi Ghíp-ôn để tế lễ vì chỗ ấy là nơi cao quan trọng nhất; Sa-lô-môn dâng một ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ ấy. Tại Ghíp-ôn, đang đêm Đức Chúa hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” Vua Sa-lô-môn thưa: “Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đa-vít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đa-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. Thiên Chúa phán với vua: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi. Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Đa-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” Sa-lô-môn tỉnh dậy, thì ra đó là một giấc mộng.” (1V 3,4-15)
Sự khôn ngoan của vua Salomon được thể
hiện qua câu chuyện xử kiện sau đây:
“Bấy
giờ có hai người gái điếm vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, thì một người
nói: “Ôi, thưa chúa thượng tôi, tôi và người đàn bà này cùng ở một nhà; và tôi
sinh một đứa con, trong lúc chị này cùng ở đó với tôi. Tôi sinh được ba ngày,
thì người đàn bà này cũng sinh. Chúng tôi ở chung với nhau; ngoài hai chúng tôi
ra, không có ai khác trong nhà. Đêm nọ, đứa con của chị này chết, vì chị đè lên
nó; giữa đêm chị thức dậy, và trong khi nữ tỳ của ngài vẫn ngủ, thì chị bế đứa
con của tôi đang nằm cạnh tôi, và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của
chị, chị đặt vào lòng tôi. Đến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, thì này đứa bé
đã chết. Nhưng khi tôi nhìn kỹ nhờ ánh sáng ban ngày, thì ra nó không phải là
đứa con tôi đã sinh ra.” Người đàn bà kia trả lời: “Không phải thế, vì con tôi
còn sống, con chị mới là đứa chết.” Nhưng người này lại nói: “Không phải, con
chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi.” Và họ cãi nhau trước mặt vua. Bấy
giờ vua nói: “Chị này bảo: “Đứa sống này là con tôi, con chị mới là đứa chết.
Chị kia đáp lại: “Không phải thế, con chị mới là đứa chết, nhưng con tôi còn
sống.” Rồi vua ra lệnh: “Đưa cho ta chiếc gươm.” Người ta đưa tới trước mặt vua
một chiếc gươm. Và vua quyết định: “Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai, và cho
mỗi người một nửa!” Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống, động lòng thương con
mình, liền thưa với vua: “Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ
còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!”Người kia nói: “Chẳng phải con tôi,
cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!” Bấy giờ vua lên tiếng nói: “Trao đứa trẻ
còn sống cho người nói trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó.” Toàn
thể Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên
Chúa đã phú bẩm cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.” (1V 3,16-28)
Sự khôn ngoan của vua Salomon cũng được Đức Giêsu nhắc tới khi những người kinh sư và Pharisêu đòi dấu lạ: “Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.” (Mt 12,42) Truyền thống Do thái rất thán phục trí tuệ sắc sảo, các phán đoán độc đáo và sự khôn ngoan của vua Salomon, cho nên người ta tin rằng phần lớn sách Châm Ngôn, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Diễm Ca là của vua Salomon.
Vài câu trích dẫn từ sách Châm Ngôn để cùng chiêm nghiệm và rút ra những bài học khôn ngoan trong từng lời khuyên cho cuộc sống.
“Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức.
Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn.” (Cn 1,7)
“Đừng tự coi mình là khôn ngoan, hãy kính sợ Đức Chúa và tránh xa sự dữ.” (Cn 3,7)
“Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của khôn ngoan;
biết Đấng Chí Thánh mới là hiểu biết thật.” (Cn 9,10)
“Nếu con khôn thì chính con được hưởng,
còn con ngoan cố thì gánh chịu một mình.” (Cn 9,12)
“Kẻ biếng nhác phải chịu cảnh nghèo hèn,
người siêng năng được giàu sang phú quý.” (Cn 10,4)
“Kiêu hãnh đi liền với ô nhục,
khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường.” (Cn 11,2)
“Người tìm kiếm điều thiện thì gặp được
ân phúc,
kẻ chạy theo điều ác, điều ác đến bên mình.” (Cn 11,27)
“Coi khinh lời nghiêm huấn ắt phải nghèo phải
nhục,
tuân giữ lời sửa dạy hẳn sẽ được hiển vinh.” (Cn 13,18)
“Người chẳng có chi thì khoe mình giàu
có,
kẻ nhiều của cải lại làm bộ túng nghèo.” (Cn 13,7)
“Tự mãn tự kiêu chỉ gây ra cãi cọ,
nghe lời khuyên nhủ thì sẽ được khôn ngoan.” (Cn 13,10)
“Tìm được vợ hiền là tìm thấy hạnh phúc,
và nhận được ơn Đức Chúa ban cho.” (Cn 18,22)
“Hãy lắng nghe lời khuyên, đón nhận lời
nghiêm huấn,
để sau này bạn được nên khôn.” (Cn 19,20)
“Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay
mượn,
Người sẽ đáp trả xứng việc đã làm.” (Cn 19,17)
“Lắm của cải đâu quý bằng danh thơm tiếng
tốt,
vàng với bạc nào trọng bằng được mến được thương.” (Cn 22,1)
“Thà nghèo mà ăn ở vẹn toàn
còn hơn giàu mà sống quanh co.” (Cn 28,6)
“Ai bố thí cho người nghèo
sẽ chẳng hề túng thiếu.
Còn ai cứ nhắm mắt làm ngơ
sẽ phải chịu bao lời nguyền rủa.” (Cn 28,27)
Xây dựng Đền Thờ Giêrusalem
Vua Salomon xây dựng rất nhiều công trình như xây hoàng cung với nhiều dinh thự nguy nga tráng lệ (1V 7,1-8), xây Cung cấm ở Milô, xây cung điện cho các cung tần mỹ nữ. Sách Các Vua quyển thứ nhất ghi lại vua có 700 bà vợ, hơn 300 phi tần (1Vua 11,3). Công trình xây dựng Đền Thờ Giêrusalem là công trình huy hoàng nhất mà vua Salomon đã xây dựng kính Đức Chúa, Đền Thờ mà vua Đavít đã ao ước mà không xây dựng được.
Thánh Kinh cho biết, vua Đavít đã rước Hòm Bia đựng Thập Điều lên ngọn đồi Môrigia, là đồi Giêrusalem. Nhưng vì vua là dân chinh chiến, tay đã nhuốm máu quân thù, nên Thiên Chúa không cho phép ông xây Đền Thờ. Ông đã trối công trình này lại cho con ông.
Tiên tri Nathan gọi Salomon dưới tên Jedidiah, có nghĩa là “được YHWH yêu thương”. Còn ở sách Sử Biên Niên, cuốn Một, chương 22 , câu 8-9: “Nhưng có lời Đức Chúa phán với cha rằng: “Ngươi đã đổ máu quá nhiều và đã nhiều phen giao chiến, nên sẽ không được xây nhà kính danh Ta. Trước mặt Ta, ngươi quả đã làm cho đất thấm đầy những máu. Này, đứa con ngươi đã sinh ra đó, nó sẽ là người của bình an, và Ta sẽ cho nó được bình an tư bề, không bị thù địch quấy nhiễu. Vì thế nó mới mang tên là Sa-lô-môn. Suốt cuộc đời nó, Ta sẽ ban cho Ít-ra-en được an cư lạc nghiệp.” hàm ý rằng YHWH tỏ cho Đavít biết tên của con mình sẽ là Salomon, nghĩa là “hoà bình”. Hai điều này dường như ngụ ý cho thấy triều đại của Salomon sẽ là triều đại hoà bình và thuận lợi dưới mắt Thiên Chúa.
Thánh Kinh nói rất nhiều về việc xây dựng Đền Thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ. Đền Thờ bắt đầu xây dựng vào khoảng năm 960 TCN, và hoàn thành trong vòng 7 năm. Việc xây dựng Đền Thờ Giêrusalem được Thánh Kinh kể chi tiết tại quyển thứ nhất sách Các Vua từ chương 5 và chương 6, nhưng Đền Thờ này chỉ tồn tại khoảng 400 năm. Năm 587 TCN, Đền thờ đã bị vua Nabucôđônôxô phá hủy. Người ta gọi đây là Đền Thờ thứ nhất. 50 năm sau cuộc lưu đầy, người Do thái được hồi hương dưới triều đại vua Đariô, và việc tái thiết Đền Thờ Giêrusalem hoàn thành vào khoảng năm 515 TCN. (x. Ezra 3,8-13; Ezra 5,1-6,22) Đây là Đền Thờ thứ hai. Khoảng năm 20 TCN, vua Hêrôđê đại đế, trùng tu lại ngôi Đền Thờ Giêrusalem, trở nên huy hoàng và tráng lệ cho tới thời Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu nhìn Đền Thờ và khóc: “Khi Đức Giê-su từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho Người xem công trình kiến trúc Đền Thờ. Nhưng Người nói: “Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.” (Mt 24,2-2) Ngôi Đền Thờ Giêrusalem, một lần nữa lại bị phá hủy hoàn toàn như lời Chúa Giêsu nói vào năm 70 SCN bởi quân đội La mã.
Hậu cung Salomon
Cuộc đời vua Salomon có thể được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, khi còn trẻ, vua là một người đạo đức và khôn ngoan, biết kính sợ Ðức Chúa và thờ kính Người. Nhờ vậy, ông đã được thành công trọn vẹn. Dưới vương triều của ông, bờ cõi được mở mang hơn hết so với các vương triều trước và sau ông; uy tín ông lan rộng bốn phương, sự giàu có của ông được kể là vô hạn, và hơn nữa ảnh hưởng của sự thịnh vượng đó lan đến cả toàn Dân. Như lời Đức Chúa nói: “Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, như Đa-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.”(1 Vua 3,14)
Nhưng Thánh Kinh cho chúng ta hay:
“Vua Sa-lô-môn yêu nhiều người đàn bà ngoại bang; ngoài ái nữ của Pha-ra-ô, còn có các bà thuộc dân Mô-áp, Am-mon, Ê-đôm, Xi-đôn, Khết, những dân mà Đức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en là “các ngươi không được đi lại với chúng, và chúng cũng chẳng được đi lại với các ngươi; vì chắc chắn chúng sẽ làm cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng.” Nhưng vua Sa-lô-môn thì lại mê những người đàn bà ấy; vua có bảy trăm bà vợ chính thức và ba trăm cung phi. Và các bà ấy làm cho lòng vua ra hư hỏng. Quả vậy, khi vua Sa-lô-môn về già, các bà vợ của vua đã làm cho lòng vua ngả theo các thần ngoại; lòng vua không còn chung thủy với Đức Chúa Thiên Chúa của vua, như lòng phụ vương Đa-vít nữa. Vua Sa-lô-môn đi theo nữ thần Át-tô-rét của dân Xi-đôn, theo thần Min-côm ghê tởm của dân Am-mon. Như thế, vua Sa-lô-môn làm điều dữ trái mắt Đức Chúa, chứ không theo Đức Chúa trọn vẹn như phụ vương Đa-vít.” (1V 11,1-6) Và điều này làm Đức Chúa nổi giận. Ngài tuyên bố trừng phạt ông: vương quốc sẽ bị chia đôi và sự thịnh vượng không còn. Nhưng hình phạt này không xảy ra trong đời vua Salomon, vì Đức Chúa nhớ tới tôi tớ Chúa là Đavít, thân phụ vua Salomon. “Đức Chúa nổi giận với vua Sa-lô-môn, vì lòng vua rời xa Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Đấng đã hiện ra với vua hai lần, và truyền cho vua là đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều Đức Chúa đã truyền. Đức Chúa phán với vua Sa-lô-môn: “Vì ngươi đã như vậy và đã không giữ giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi. Tuy nhiên, vì thân phụ ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi, nhưng sẽ giựt vương quốc khỏi tay con của ngươi. Hơn nữa, vì nể Đa-vít tôi tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn, Ta sẽ không giựt lấy cả vương quốc, nhưng sẽ để lại cho con của ngươi một chi tộc.” (1Vua 11,9-13)
Chuyện những bà vợ của vua Salomon làm tôi nhớ tới nguyên tổ Ađam. Nghe lời vợ, ông ăn trái cấm bà trao, và như vậy không tuân giữ những điều mà Thiên Chúa đã cấm: Ngươi không được ăn trái cây giữa vườn “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.”(St 3,3) Chính việc không tuân giữ những điều Thiên Chúa truyền dạy đã dẫn con người vào cảnh lao đao vất vả, đau khổ và chết chóc.
Trong hành trình về Đất Hứa, trước bao sự kiện lạ lùng được Đức Chúa thực hiện nhưng tấm lòng dân Ítraen vẫn mê muội. Một lần, Môsê lên núi gặp gỡ Chúa hơi lâu, dân chúng không chờ đợi được. Họ đúc con bê bằng vàng. Thờ lạy và tôn vinh là “thiên chúa” của mình. Chính vì vậy mà Đức Chúa nổi giận và tiêu diệt những người không trung thành với Đức Chúa. (Xh 32,1…)
Thiên Chúa luôn nhắc đi nhắc lại với dân Ítraen rằng: chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Bản văn Thập Điều ghi như sau:
“Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.
Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. (Xh 20,2-6)
Khi một thầy thông luật hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Chúa Giêsu nói như sau: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.” (Lc 10,26-28)
Chính ma quỷ cũng đã cám dỗ Chúa Giêsu: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” Đức Giê-su liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4,9-10)
Con người ngày nay nhìn mọi sự việc một cách tương đối, ngay cả trong việc thờ phượng Thiên Chúa cũng tương đối. Giữ luật Chúa một cách tương đối, miễn sao có lợi cho mình. Giữ Luật Chúa theo những điều mình ưa thích. Vì vậy, có nhiều người tội lỗi ‘ẩn thân’ trong thân phận cao quý và quyền thế. Một Ađam, con Thiên Chúa, không tỉnh táo trước những lời ngon ngọt đã quay lưng lại với những giới luật của Thiên Chúa, đưa con người vào vòng tội lụy. Một Salomon khôn ngoan và quyền quý, nhưng không tịnh tâm trước những yêu cầu của các bà vợ, mà còn chiều theo ý họ, quay lưng lại với Thiên Chúa và nhận một kết cục thảm sầu.
Ngày nay, khi con người đề cao cái tôi của mình, một mẫu ‘thiên chúa’ của người thời đại, như lời con rắn xưa cám dỗ bà Evà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 3,4-5), họ đang đánh mất Thiên Chúa chân thật của mình và những giáo huấn của Người. Chắc chắn một kết cục sẽ không khác gì Ađam đưa loài người vào vòng tội lỗi, hay như Salomon, dẫu vinh hoa phú quý tột cùng, cũng bị loại khỏi thánh nhan Đức Chúa.
Còn tôi, với Thiên Chúa, tôi có thái độ nào?
Còn bạn thì sao?!?
Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.(Lc 10,14)
------------------------------------------------
Nguyễn Thái Hùng
21.3.2023
+++++++
Tham khảo
http://ngonsu.quetroi.net/KHANG/NDKSolomon03.html
https://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/KINHTHAN/CuaCaiTrongKT/CuaCai11.htm
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salomon
No comments:
Post a Comment