Từ thời
các Tông đồ, các Kitô hữu đã tưởng niệm cuộc tử nạn và sự Phục sinh của
Chúa Giêsu. Những biến cố gần gũi chung quanh sự kiện tử nạn và phục
sinh của Chúa Giêsu Kitô hợp thành một thời điểm cao trọng nhất trong
năm phụng vụ gọi là Tuần Thánh; và cao điểm của Tuần Thánh chính là Tam
Nhật Vượt Qua, cũng gọi là Tam Nhật Thánh hay Tam Nhật Phục Sinh – gồm
Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy Tuần Thánh, và Lễ Phục Sinh. Đây chính là
trung tâm điểm của đức tin Kitô giáo, vì chính sự chết và sự phục sinh
của Đức Giêsu là trung tâm ơn cứu độ Kitô giáo.
Giáo lý Hội Thánh Công giáo nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Tam Nhật Thánh: “Bắt
đầu bằng Tam Nhật Thánh như nguồn ánh sáng, thời đại mới của sự phục
sinh đổ đầy cả năm phụng vụ bằng sự rực rỡ của ánh sáng. Dần dần, về
phương diện khác của nguồn gốc này, năm được tôn lên bằng phụng vụ. Đây
thực sự là “năm của ân sủng Thiên Chúa”. Sự cứu độ hoạt động trong khung
thời gian, nhưng vì sự viên mãn trong cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu và
sự tràn đầy Thánh Thần, đỉnh cao của lịch sử được tiên báo là “sự nếm
trước” và Vương quốc của Thiên Chúa đến trong thời đại của chúng ta” (GLHTCG, số 1168) .
TAM NHẬT VƯỢT QUA
1. Tổng quát
a. Từ ngữ
Từ ‘ Vượt Qua ’ trong tiếng Hípri là Pascha (pèsah) , bắt nguồn từ tiếng Aram là pashâ. Người
ta còn bàn cãi về nguồn gốc của danh từ này. Có người gán cho nó một
căn ngữ từ tiếng Assyria, nhưng chưa có giả thuyết nào có giá trị quyết
định. Thánh Kinh cho từ pèsah đồng nghĩa với động từ pasah ,
có nghĩa là đi khập khiễng hoặc nhảy múa theo nghi thức quanh lễ vật hy
tế (x 1V 18,21.26) hoặc theo nghĩa bóng là nhảy qua, bỏ qua, tha thứ.
Lễ vượt qua là việc đi ngang qua của Thiên Chúa, Người lướt qua trên
những nhà người Israel, đang khi đó Người lại trừng phạt những nhà người
Ai Cập (x Xh 12,13.23.27; Is 31,5).
Trải qua thời gian từ “Vượt Qua” đối
với Đức Giêsu và Kitô giáo mang nhiều nghĩa mới như: xây lại đền thờ có
ý về việc Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ tạm thời và loan báo đền thờ vĩnh
cửu là thân thể phục sinh của Người (x Ga 2,13-23); Vượt Qua của Chiên
Mới: Đức Giêsu là chiên vượt qua, thiết lập bữa tiệc Vượt Qua mới và
thực hiện cuộc Xuất Hành riêng của Người, vượt qua thế gian về cùng Cha
(Ga 13,1). Vượt qua tức là Tiệc Thánh Thể: khi ăn thịt và uống máu mình,
Đức Giêsu đã diễn tả cái chết của Người như là hy lễ Vượt Qua mà Người
là Chiên Mới (x Mc 14,22-24). Sau cùng vượt qua còn chỉ bữa tiệc cánh
chung: bữa tiệc trên trời, bữa tiệc mà mọi người đang trên đường tới dự
(x Kh 5,6-12; 12,1).
b. Nguồn gốc
Thời Giáo
hội sơ khai, chỉ có lễ Phục Sinh. Trong giờ kinh nguyện canh thức được
kéo dài suốt đêm thứ Năm Thánh cho đến rạng sáng lễ Phục Sinh, các Kitô
hữu thời sơ khai cử hành mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô tử nạn và Phục sinh
như một đại lễ. Dựa vào lời của một kitô hữu Syria thế kỷ thứ III đã
viết: “ Vào ngày thứ Sáu và ngày Sabat tất cả hãy ăn chay và không
được nếm một thứ gì. Anh em cùng nhau đến và vọng canh thức suốt đêm
bằng việc đọc kinh dâng lời khẩn nguyện, đọc sách các Tiên Tri, Tin Mừng
và hát Thánh Vịnh… cho đến giờ thứ ba ban đêm sau ngày Sabat; đoạn chấm
dứt chay tịnh. Kế tiếp anh em hãy dâng các lễ vật; sau đó anh em hãy ăn
uống và reo hò, vui mừng và hớn hở vì thực Đức Kitô, sự Phục sinh của
chúng ta, đã sống lại. Đây mãi mãi là luật cho anh em cho đến tận thế”. (X. The litury and Time , p 35-36).
Đối với
các Kitô hữu thời sơ khai, đó là đêm có rất nhiều ý nghĩa. Các tác giả
sách Tin Mừng kể cho chúng ta biết việc Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh
và sống lại xảy ra trong bối cảnh lễ Vượt Qua, là cử hành quan trọng
nhất trong niên lịch của người Israel. Vượt Qua đánh dấu đêm sứ thần
Thiên Chúa sát hại các con đầu lòng của người Ai cập, giải thoát dân
Israel khỏi kiếp nô lệ. Nhưng theo truyền thống Israel, ngày lễ Vuợt Qua
có một lịch sử xa xưa hơn nhiều. Vào ngày này, Thiên Chúa đã tác tạo
Adam. Vào ngày này, Thiên Chúa đã gọi Abraham. Vào ngày này, sứ thần của
Chúa đã dừng tay Abraham khi ông định sát tế Isaac. Vì thế, vào dịp lễ
Vượt Qua, dân Do thái nhìn lại toàn bộ lịch sử của họ, nhớ lại tình
thương đặc biệt Thiên Chúa dành cho họ ngay từ buổi bình minh của tạo
dựng (X. Điển ngữ Thần học Thánh Kinh tập IV , Bản dịch Hviện Đà lạt Pio X, 1973, trang 445-448).
Ngày thánh
thiêng nhất đối với người Do thái đã trở thành ngày thánh thiêng nhất
đối với người Kitô hữu. Cũng vậy, trong đêm dài canh thức, các Kitô hữu
nhìn lại lịch sử thánh và nhận ra Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi Đức
Kitô trỗi dậy từ trong kẻ chết. Thánh Phaolô đã viết: “Chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta là Đức Kitô, đã chịu hiến tế” (1 Cr 5,7).
Sự gia
tăng ý thức về tính lịch sử của các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu đã
dẫn đến sự hình thành Tam nhật Vượt Qua, rồi đến Tuần Thánh và cuối
cùng là Mùa Chay. Truyền thống này bắt đầu vào thế kỷ IV, thời Thánh
Ambrôsiô (ở Milano nước Ý) và Thánh Augustinô (ở Hippone, Bắc Phi), Tam
Nhật Thánh được cử hành vào 3 ngày. Lý do cử hành trong “ba ngày” là để
làm đúng theo công thức “ba ngày” được nhiều câu Sách Thánh nói tới, như
Hs 6,2; Gn 2,1 và Mt 12,40). Các Kitô hữu kính nhớ cuộc Khổ nạn của
Chúa Giêsu theo đúng thời gian, bước theo Người từ lúc Người tiến vào
Giêrusalem, khi bị bắt, bị đóng đinh cho đến khi Người phục sinh như Tin
Mừng đã thuật lại.
Cũng vào
cuối thế kỷ này, thời thánh Augustinô, Bí tích Thánh tẩy cho người lớn
là nét trọng tâm của Tam Nhật. Khoảng năm 1951-1955, Đức Thánh cha Piô
XII đã phục hồi lại Tam Nhật thánh, cho phép cử hành phụng vụ thứ Năm
thánh và Canh thức chiều tối, và khuyến khích việc Rửa tội cho người lớn
vào đêm Canh thức Phục sinh. Những canh tân này nhấn mạnh đến sự tham
dự của dân chúng và trở về sự thực hành thời Giáo Hội sơ khai.
c. Ý nghĩa
Tam Nhật
Vượt Qua thường được gọi là “thánh” vì chúng khiến cho chúng ta sống trở
lại biến cố chính của ơn cứu độ; thật thế chúng dẫn đưa chúng ta vào
trong nhân tố của lòng tin Kitô: là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục
sinh của Chúa Giêsu Kitô. Đó là những ngày mà chúng ta có thể coi như
một ngày duy nhất, vì chúng là trọng tâm của toàn năm phụng vụ cũng như
của đời sống Giáo Hội. Đây là thời điểm kết thúc con đường Mùa Chay để
chúng ta chuẩn bị bước vào chính bầu khí mà Chúa Giêsu đã sống khi xưa
tại Giêrusalem. Chúng ta muốn khơi dậy ký ức sống động về các khổ đau mà
Đức Giêsu đã chịu vì chúng ta và chuẩn bị cử hành Chúa Nhật tới đây với
niềm vui lễ Vượt Qua đích thực, mà Máu Chúa Kitô đã bao phủ bằng vinh
quang. Đó là Lễ Vượt Qua mà trong đó Giáo Hội cử hành Lễ là nguồn gốc
của mọi thánh lễ khác như được khẳng định trong Kinh Tiền Tụng ngày lễ
Phục Sinh theo nghi thức thánh Ambrôsiô.
Mầu nhiệm
vượt qua này là trung tâm điểm của các việc cử hành trong Năm phụng vụ.
Công đồng chung Vaticanô II đã nhấn mạnh nhiều tới điều này trong Hiến
chế về phụng vụ ở các số 5. 6. 61 và 102. Và “Văn Kiện Những Quy Luật
Tổng Quát Năm Phụng Vụ” nói một cách rõ ràng rằng : “Chúa Kitô đã hoàn
tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo,
nhất là nhờ mầu nhiệm Vượt qua của Người. Chính Tam nhật Vượt qua, nhằm
tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa, sáng chói lên như tột
đỉnh của cả Năm phụng vụ”. (x. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma , số 18.19 )
Như vậy cử
hành mầu nhiệm này là cử hành công cuộc cứu chuộc chúng ta và toàn thể
nhân loại. Do vậy toàn thể nội dung của tuần thánh nhằm làm nổi bật và
làm sáng tỏ mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Kitô.
Sau thời
gian cử hành Mùa Chay thánh, trong đó Giáo hội hướng về Đại lễ Phục sinh
bằng việc chuẩn bị cho các dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô
giáo: Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể trong đêm Vọng Phục sinh; đồng thời
dọn lòng cho con cái để mừng Đại Lễ này với các việc đọc Lời Chúa, tham
dự phụng vụ, cầu nguyện, ăn chay hãm mình, canh tân trở lại, sống bác
ái và làm việc bố thí.
Vì vậy,
hiểu rõ ý nghĩa Tuần thánh và Tam Nhật Thánh là một điều quan trọng.
Công đồng Vaticanô II cũng đã lưu ý tới điều này trong Hiến chế về phụng
vụ Thánh Công đồng viết như sau : “Mỗi năm một lần, Giáo Hội còn cử
hành hết sức trọng thể vào dịp lễ Phục sinh sự sống lại cùng với cuộc
Thương khó của Người” (PV, 102). Chính vì thế, Tuần Thánh khởi sự bằng
cuộc rước lá trước thánh lễ, nhằm gợi lại việc Chúa Giêsu khải hoàn vào
thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia, như sách Giacaria đoạn
9,9-10 đã tiên báo, Người đã muốn làm như thế trước khi chịu nạn, đã
chiếu rọi vào cuộc khổ nạn một ánh sáng báo trước cuộc toàn thắng của
Người. Khi lặp lại những tiếng hoan hô của dân Do Thái ngày xưa, cộng
đoàn Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô. Theo sau cây thập giá
và linh mục, dân Thiên Chúa long trọng tiến vào nhà thờ, nơi họ sẽ dâng
lại lễ tế giao hòa với Thiên Chúa. Trong đi rước, họ nói lên niềm hy
vọng vì biết rằng khi lên trời, Chúa Giêsu đã mở cửa thành Giêrusalem
thiên quốc cho họ, và giờ đây họ đang tiến về nơi đó.
Như vậy,
Tuần Thánh bắt đầu bằng Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá nhằm tung hô Chúa Giêsu
khải hoàn, tiếp đó là mời gọi ta theo Người trên con đường khổ nhục. Và
Phụng vụ đêm Phục Sinh sẽ ca tụng Chúa Giêsu Kitô đã tự hạ đến cùng để
bước vào vinh quang, đã sống lại để chiến thắng thần chết. Chúng ta phải
được ánh sáng của Chúa Kitô thu hút mới có thể theo Người trong cuộc
khổ nạn mà không chùn bước. Chúng ta phải thông hiệp với thập giá của
Người mới được chia sẻ sự sống của Người. Đó là tất cả ý nghĩa của Tuần
Thánh gồm tóm lại trong hai hướng đi đó.
2. Thứ Năm Tuần Thánh
a. Thánh Lễ Làm Phép Dầu
Nguồn gốc
Dầu tượng
trưng cho sự phong phú và chúc lành của Thiên Chúa. Dầu cũng là dấu hiệu
của sự hân hoan, vui mừng. Đức Kitô, Đấng được xức Dầu, trở thành Tư
Tế, thành Tiên Tri và thành Vướng Đế của Tân ước. Y tưởng này bắt nguồn
từ Cựu ước. Thời Cựu ước, người ta quen dùng nghi thức xức dầu để tấn
phong các vị tư tế, tiên tri và vua.
Dầu đem
lại sự hân hoan tươi tắn, đem lại sức mạnh và làm cho tâm hồn trở nên
thơm ngoan dịu dàng trước mắt. Chính vì thế, Chúa Kinh Thánh có 3 hình
ảnh khác về ý nghĩa của dầu: Hình ảnh Nước Đại Hồng Thuỷ tẩy sạch trần
gian, rồi tiếp đó là cành lá của cây Ôliu do chim câu tha về. Hình ảnh
Aharon được tắm rửa, thanh tẩy trước khi được xức dầu. Hình ảnh Chúa
Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Sau đó, được xức dầu tấn phong nhờ
Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Ý nghĩa
Việc làm
phép dầu được đưa vào thánh lễ từ sau cuộc canh tân 1955. Trong thánh lễ
này Đức Giám mục sẽ làm phép Dầu Bệnh nhân, Dầu Dự Tòng và thánh hiến
dầu thánh, sau đó phân phát đến các giáo hạt và các giáo xứ. Điều này có
ý nói rằng Dầu từ Nhà thờ Chánh Tòa, là Nhà thờ của Đức Giám Mục Giáo
phận chia đi tới các nẻo đường, các vùng trong giáo phận. Và con đường
mà Dầu từ trung tâm là Nhà thờ Chánh Tòa được phân chia đi các nhánh đó
sẽ được minh họa bằng một từ gọi là Con Đường Dầu. Con Đường Dầu này nói
lên vai trò trung tâm của Đức Giám Mục và nói lên sự liên kết đằm thắm
giữa ngài các Linh mục trong Giáo phận.
Thông
thường, thánh lễ này được tổ chức vào sáng ngày thứ Năm Tuần Thánh. Do
đó, thánh lễ Dầu là thời điểm để quy tụ các linh mục bên cạnh Đấng bản
quyền của mình để hiệp dâng thánh lễ. Đồng thời, dân chúng cũng được mời
gọi tham dự đông đủ vào nghi lễ quan trọng này. Trong thánh lễ, các
linh mục lặp lại những lời cam kết của họ khi được thụ phong linh mục vì
tình yêu Đức Kitô và tâm tình phục vụ Giáo hội.
b. Lễ tưởng niệm Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu
Nguồn gốc
Mỗi năm,
dân Do thái ăn lễ Vượt Qua để tưởng niệm việc họ đã được Thiên Chúa giải
thoát khỏi cảnh áp bức của người Aicập và Thiên Chúa đã ký kết giao ước
với họ. Chúa Giêsu Kitô đã mở đầu cuộc Thương Khó khi cùng với các môn
đệ dùng bữa tiệc Vượt Qua đó. Từ giờ phút này, Đức Kitô sẽ thực sự dấn
thân vào cuộc thương khó tử nạn. Ngài đã khởi đầu bằng một bữa tiệc Vượt
Qua cổ truyền để chấm dứt Lễ Vượt qua của Cựu Ước, đồng thời mở đầu cho
lễ Vượt Qua của Tân Ước bằng chính máu thịt Ngài. Cuộc hiến tế đẫm máu
trên đồi Canvê giờ đây được tiên báo bằng việc lập Bí tích Thánh Thể.
Như vậy, Ngài đã muốn cho bữa tiệc này trở thành bữa tiệc của giao ước
mới, giao ước Người lập khi đổ máu hy sinh trên thập giá. Nhiệm tích này
sẽ tồn tại mãi mãi như một kỷ niệm và là một lễ hy sinh mỗi khi được
tái hiện trên bàn thờ. Vì thế, khi trao cho các môn đệ tấm bánh và chén
rượu, là đồ ăn thức uống đã trở thành Mình và Máu của Ngài.
Thứ Năm Thánh bắt đầu Tam Nhật Vượt Qua. Ban
đầu, Tam Nhật chỉ gồm Thứ Sáu Thánh và Thứ Bảy Thánh (theo cách tính
của người Do Thái là ba ngày). Sang thế kỷ 4 Thế kỷ IV, thời Thánh
Augustinô ở Bắc Phi, vì Giáo Hội muốn sống từng giờ với Đức Giêsu trong
cuộc vượt qua của Ngài nên đã lập ra nghi lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh.
Vì ý muốn đó cho nên đây là ngày duy nhất buộc cử hành đúng vào giờ bữa
ăn tối. Trước đó, Thứ Năm Thánh có tên là thứ năm Lễ Tiệc Ly. Ngày này
tưởng niệm bữa tiệc ly của Chúa và kỷ niệm Chúa lập bí tích Thánh Thể.
Và thứ năm này cũng có tên khác là thứ năm của Giới Răn Mới dựa theo Ga
13,34. Trong nghi lễ thứ năm có nghi thức rửa chân, để nhớ mãi giới luật
tình yêu Chúa đã dạy trong đêm tiệc ly này. Nguyên thủy Thứ Năm Thánh
chỉ là ngày chuẩn bị lễ mừng mầu nhiệm Vượt Qua. Vào ngày này, các hối
nhân được xá giải và tái nhập vào cộng đoàn để họ được tham dự vào lễ
Vượt Qua. Từ hôm nay, dầu thánh cũ bị hủy bỏ, các nhà thờ sẽ sử dụng dầu
thánh mới để cử hành bí tích Thánh Thể và Thêm Sức vào đêm Phục Sinh.
Truyền
thống cử hành nghi thức Lễ Tiệc Ly tại Giêrusalem, là địa điểm và thời
điểm tiến hành bữa tiệc ly của Chúa theo tương truyền. Về sau cả Giáo
Hội đã áp dụng nghi thức Thứ Năm Thánh tương tự truyền thống ở
Giêrusalem. Tập tục này có từ thế kỷ IX.
Ý nghĩa
Thánh Lễ
hôm nay bắt đầu cho Tam Nhật Vượt Qua. Trong Thánh Lễ này, chúng ta
tưởng niệm lại 3 ý nghĩa chính sau đây: Tái diễn lại bữa tiệc của Chúa
Giêsu với các môn đệ. Đây là thời điểm Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể
và chức Linh Mục Thượng Phẩm để qua những con người này Ngài trực tiếp
hiện diện với nhân loại cho đến ngày tận thế. Hôm nay Giáo Hội cũng kỷ
niệm lại với những lời trăn trối tâm huyết cuối cùng mà Ngài đã dành cho
các môn đệ đó là việc Ngài ban giới luật yêu thương được cụ thể hóa
bằng việc rửa chân cho các Tông đồ. Ba sự việc này diễn ra trong thời
gian sau cùng mà Đức Giêsu còn ở giữa các môn đệ. Như vậy, chiều hôm
nay, Giáo Hội sống lại những giây phút cao quí nhất, tuyệt vời nhất của
tình yêu nơi Đức Kitô, một tình yêu không thể đo lường hay sánh ví.
3. Thứ Sáu Tuần Thánh
a. Nguồn gốc
Việc cử
hành phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh tại Giêrusalem được ghi nhận đầu
tiên vào thế kỷ IV do sử gia Esgerie tường thuật lại về việc cầu nguyện
và suy niệm về cuộc Thương khó Chúa trong suốt lộ trình từ Nhà Tiệc Ly
đến chân đồi Gôlgôtha. Trên lộ trình này, dân chúng dừng lại từng chặng
để nghe các đoạn sách Ngôn sứ nói về cuộc Thương khó của người Tôi Tớ
Thiên Chúa, suy niệm các đoạn Tin mừng nói về đau khổ của Chúa, cầu
nguyện và hát thánh ca. Cuối lộ trình là nơi Chúa chịu đóng đinh, Giám
mục sẽ đưa cao cây Thánh giá cho dân chúng tôn thờ.
Tại Rôma
thế kỷ VII, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh người ta tưởng niệm cuộc khổ nạn
bằng cách suy gẫm trình thuật Thương khó theo Tin mừng Gioan, sau đó
cộng đoàn sẽ đọc lời cầu chung cho Giáo Hội, các nhà lãnh đạo thế giới,
cầu cho sự hiệp nhất và cho mọi nhu cầu của nhân loại. Vì không cử hành
thánh lễ nên nhiều nhà thờ tổ chức cử hành phụng vụ Lời Chúa cách trọng
thể: Thánh giá có tượng chịu nạn được để trên bàn thờ cho dân chúng tôn
thờ, nghe Lời Chúa và suy gẫm về cuộc khổ nạn của Người, sau đó rước lễ
(x. Năm phụng vụ , Nguyễn Thế Thủ, ĐCV Giuse Tp HCM 2001, tr 59).
Trước năm
1955, việc cử hành phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh có sự khác biệt so
với hiện nay: ban sáng cử hành phụng vụ Lời Chúa và suy tôn Thánh giá,
buổi chiều đi đàng Thánh giá, buổi tối nghe “giảng đại phúc” về cuộc
Thương khó của Chúa Giêsu. Nhưng sau 1955 có sự sắp xếp lại việc cử hành
nghi thức: buổi chiều cử hành cuộc Thương khó và tôn vinh Thánh giá,
đồng thời cho phép cộng đoàn phụng vụ rước lễ nhưng không cử hành thánh
lễ. Nghi thức từ năm 1970 đến nay không thay đổi gì nhiều về cấu trúc và
giờ cử hành, nhưng chỉ thay đổi về các bài đọc, sắp xếp lại các lời
nguyện cũng như thêm vào một số ý nguyện mới theo tinh thần của Vaticano
II. (x. Năm phụng vụ , Nguyễn Thế Thủ, ĐCV Giuse Tp HCM 2001, tr 66)
b. Ý nghĩa
Theo Kinh
Thánh, trước ngày Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã bị xử án
tại dinh Philatô vào lúc tảng sáng, rồi Người bị kết án Tử hình, vác
thập giá đến pháp trường, bị đóng đinh vào thập giá, bị treo lên và rồi
Người tắt thở trên thập giá vào khoảng 3 giờ chiều. Vì thế, hôm nay Giáo
Hội muốn chúng ta hãy chăm chú suy niệm về tình thương của Ngài qua
những khổ hình và cuộc tử nạn của Người được trình bày qua bài Thương
Khó. Chúng ta hãy suy niệm về mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Hôm nay là
ngày thích hợp để mỗi Kitô hữu chúng ta trở về với lòng mình. Chúng ta
hãy kết hợp lòng mình với những đau khổ mà Ngài đã chịu vì yêu thương ta
và muốn cứu độ ta.
Việc cử
hành vào chiều Thứ Sáu không phải là Thánh lễ mà chỉ là một Nghi lễ
tưởng niệm việc Đức Giêsu chịu chết. Đây không phải là những lễ nghi chỉ
gợi nên một cuộc trình diễn bi kịch cảm động về cuộc thương khó của Đức
Giêsu. Đây là một mầu nhiệm Đức Tin. Chúng ta phải luôn tin rằng Đức
Giêsu chết và đã sống lại để cứu độ chúng ta. Nhưng để có thể hiểu chúng
ta được cứu khỏi một vực thẳm đầy tội lỗi và gian tà như thế nào, chúng
ta cùng với Ngài bước xuống vực thẳm đó. Nghi lễ Thứ Sáu tuần thánh
nhắc lại việc Đức Giêsu xuống vực thẳm ấy, đó là tội lỗi của loài người,
những đau khổ của nhân loại về thể xác cũng như tinh thần (bị hất hủi,
bị người thân phản bội, bị thất bại, bị xâm phạm thân thể, bị đối xử bất
công, bị nhục nhã, nỗi lo âu khủng khiếp như hấp hối, sợ hãi, chết
v.v.). Nghi lễ hôm nay phải giúp ta ý thức tầm mức nghiêm trọng của sự
dữ và sự tội ; đồng thời ý thức giá trị tuyệt vời của việc Chúa cứu
chuộc chúng ta. Hôm nay cũng là dịp thuận tiện để ta giục lòng thống
hối, hoán cải tâm hồn qua việc chay tịnh, hãm mình hy sinh và đền tội.
4. Thứ Bảy Tuần Thánh
a. Nguồn gốc
Ngay từ
thế hệ Kitô hữu đầu tiên, đã có việc cử hành hằng năm mừng Chúa sống
lại. Trong suốt ba thế kỷ đầu, đây là lễ hội duy nhất được ghi nhận
trong Giáo Hội. Việc cử hành nguyên thủy – tiền thân của Lễ Phục Sinh
sau này – được thực hiện bằng hình thức một cuộc canh thức (vigilia
trong tiếng La tinh có nghĩa là “sự tỉnh thức” hay “đợi chờ”). Thật dễ
hiểu tại sao các Kitô hữu đã chọn những giờ khắc của ban đêm để cử hành
cảm nghiệm tôn giáo của mình về cuộc khải thắng của Đức Kitô trên sự
chết và tội lỗi – đồng thời đó cũng là cuộc khải thắng của chính họ cùng
với Đức Kitô. Chính trong những giờ khắc của đêm tối trước ngày thứ
nhất trong tuần (ngày Chúa Nhật) mà mầu nhiệm này đã diễn ra. (Mt 28,11;
Mc 16,1; Lc 24,1; Ga 20,1).
Vào thời
Giáo Hội sơ khai, có một niềm tin rất phổ biến rằng Chúa Phục Sinh sẽ
trở lại trong chính những giờ khắc đêm tối này của Đêm Canh Thức Phục
Sinh. Vì vậy, điều đương nhiên là tất cả mọi người cùng có mặt và chờ
đợi. Đây sẽ là sự trở lại cuối cùng trong vinh quang của Người, và ngày
nay trong mỗi Thánh Lễ, lời loan báo về sự cáo chung của thời gian vẫn
còn vang lên để xác tín: “Đức Kitô đã chết, đã sống lại và sẽ đến!”.
Ngoại trừ
một số thay đổi, nhất là thay đổi về thời lượng, nghi thức đã được canh
tân ngày nay phản ảnh rõ chính nghi thức của những thế kỷ ban đầu. Vừa
khi sao hôm xuất hiện trên bầu trời, các nghi thức bắt đầu được cử hành
và kéo dài suốt cả đêm. Những khoảnh khắc đầu tiên dành cho việc đọc các
bài đọc Thánh Kinh và những lời nguyện. Các bài đọc Thánh Kinh – thường
gồm 12 bài – nhấn mạnh ý nghĩa tiên tri về một công cuộc sáng tạo và
cứu độ mới bằng nước. Đó là những bản văn nói về cuộc tạo dựng ban đầu,
sự sa ngã, trận lụt hồng thủy, câu chuyện sát tế Isaac, biến cố các
thiên thần vượt qua cửa nhà người Do Thái để tàn sát các con trai đầu
lòng của người Ai Cập, cuộc vượt qua Biển Đỏ và hành trình tiến vào Đất
Hứa.
Khi bóng
tối đã trùm kín không gian cũng là lúc chủ đề nói trên được thể hiện
bằng nghi thức sáng tạo mới qua nước của Phép Rửa, nhất là Phép Rửa cho
người trưởng thành. Vốn là một nét đặc trưng của Đêm Canh Thức Phục
Sinh, nghi thức này bắt đầu với việc làm phép nước Phục Sinh một cách
trọng thể. Trong khi cộng đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh, cây Nến Phục Sinh
cháy sáng được cắm vào nước, và dầu thánh cũng được chế vào hòa lẫn với
nước. Giờ đây, những người dự tòng – thường đã được chuẩn bị từ vài năm
trước – sẽ tuyên hứa từ bỏ mọi ảnh hưởng của Satan trên con người cũ
của mình; họ tuyên xưng đức tin, lãnh nhận Phép Rửa, được xức dầu và mặc
áo trắng. Vào thế kỷ thứ 5, trong Giáo Hội Rôma có thực hiện việc xức
dầu lần thứ hai do đức giám mục – và đây chính là dạng ban đầu của bí
tích Thêm Sức.
Trong
những thế kỷ đầu tiên, người ta có thói quen trao sữa và mật ong đã được
làm phép cho những người mới lãnh nhận Phép Rửa. Cử chỉ này có ý nghĩa
rằng người mới lãnh Phép Rửa là người còn non nớt trong đức tin, gọi là
tân tòng. Cử chỉ ấy cũng ám chỉ rằng họ vừa mới tiến vào miền Đất Hứa
mới “chảy tràn sữa và mật ong”. Việc thực hành nói trên, có tầm vóc đánh
dấu một mốc điểm quan trọng trong cả đời sống, vốn là một thực hành
được vay mượn từ các thần thoại ngoại giáo. Cuối cùng, gần lúc tờ mờ
sáng, những người mới lãnh Phép Rửa sẽ rước Thánh Thể lần đầu cùng với
cộng đoàn tín hữu.
b. Ý nghĩa
Việc tưởng
niệm Đức Kitô chịu chết và sống lại đạt tới cao điểm trong đêm nay. Đêm
nay là đêm thánh của người Kitô hữu. Đêm nay cộng đoàn Kitô hữu ôn lại
tất cả lịch sử cứu độ, từ buổi khai sinh lập địa và việc dân Israel ra
khỏi Aicập cho đến việc Đức Giêsu sống lại và được tôn vinh trên trời.
Thánh Augustin, trong tác phẩm “ Sermo ” đã coi Canh thức Vượt Qua trong đêm Vọng Phục Sinh là “ Mẹ của mọi lễ Canh Thức ”.
Khi cử hành Canh thức này, Giáo hội canh thức để mong đợi Chúa Kitô
sống lại và cử hành mầu nhiệm Phục sinh ấy trong các bí tích. Vì thế,
mọi cử hành trong đêm Canh thức Vượt Qua phải được tổ chức vào ban đêm,
nghĩa là khi bắt đầu đêm tối và kết thúc trước rạng đông ngày Chúa nhật.
(x. Sách lễ Roma, Quy định tổng quát về năm phụng vụ và Niên lịch, số 21)
Đêm nay,
người Kitô tận hưởng niềm vui Chúa Phục Sinh sau 40 đêm ngày ăn chay,
hãm mình và cầu nguyện. Đêm nay, niềm vui của người Kitô hữu được thể
hiện qua việc đi từ đêm tối đến ánh sáng, đi từ cõi chết âm u tiến vào
cõi sống tưng bừng hoan hỷ. Đêm nay người Kitô hữu được mời gọi theo lời
khuyên của Đức Kitô, họ cầm đèn sáng trong tay giống như những người
đang tỉnh thức đợi chủ trở về để đưa họ vào bàn tiệc. Đêm nay, họ được
nếm trước niềm vui của thánh Giêrusalem trên trời. Vì thế, đêm nay, họ
hát vang lời Allêluia! Mừng Chúa Phục Sinh!
Lời Kết
Biến cố
Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và sống lại xảy ra trong bối cảnh lễ Vượt
Qua, là cử hành quan trọng nhất trong niên lịch của người Do thái. Ngày
quan trọng nhất đối với người Do thái đã trở thành ngày thánh thiêng
nhất đối với người Kitô hữu. Việc cử hành phụng vụ Tam nhật thánh không
dừng lại ở việc hướng về, tưởng nhớ một sự kiện lịch sử chan hòa ý nghĩa
xúc động và đầy sức tác động, nhưng quan trọng trên hết chính là tái
diễn cách sống động sự kiện Đức Giêsu đã chết và sống lại trong hiện tại
và kéo dài đến tương lai. Vì thế, cuộc sống của người Kitô hữu được mời
gọi nối dài các mầu nhiệm của Đức Kitô, đặc biệt là Mầu nhiệm tử nạn và
phục sinh của Người. Chúng ta được mời gọi biết chết với Đức Kitô để
rồi cũng được sống lại với Ngài. Chính là Chúa Giêsu Kitô là sức mạnh,
bình an và nguồn mọi ơn phúc của mỗi người chúng ta.
(Lược trích Phụng Vụ Tuần Thánh Nguồn Gốc, Ý Nghĩa Và Việc Cử Hành)
Nguồn giaophanphucuong.org