VIỆC HÌNH THÀNH KINH TIN KÍNH
Bốn công đồng chung đầu tiênI. Đức Giêsu, Thánh Linh là Thiên Chúa?
1. Ario
2. Công đồng Nicêa (325)
3. Nửa thế kỷ xáo trộn
4. Công đồng Constantinopoli (381)
II. Đức Giêsu nhập thể thế nào?
1. Hai trường phái Alexandria – Antiokia
2. Công đồng Êphêso (431)
3. Công đồng Calcêdonia (451)
III. Liên hệ giữa các Giáo Hội
Toát yếu - Câu hỏi
------------------------------------------------------------------------------
Các Kitô hữu tiên
khởi không quan tâm đến triết lý, thần học. Họ làm chứng về Đức Kitô, Đấng gọi
Thiên Chúa duy nhất của Kinh Thánh là Cha và đã phái Thánh Linh đến với họ. Họ
rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 28,19). Thế nhưng phải nói thế
nào cho thế giới chung quanh hiểu niềm tin đó? Tại sao Thiên Chúa duy nhất vừa
là Cha là Con, là Thánh Thần? Tại sao một nhân vật chào đời, sống rồi chết, lại
là Chúa, vì Chúa thì bất biến?
Kinh Tin Kính các
tín hữu nay vẫn đọc ngày Chúa nhật, là kết quả của bốn công đồng chung các Giám
mục, là những vị hữu trách trong Giáo Hội. Bản kinh đã được hình thành khá vất
vả, với nhiều tranh chấp lẫn bạo lực, nhiều xung đột cá nhân, văn hóa, khu vực,
tù đày, gây gỗ, đồ máu, sự can thiệp của chính quyền và quân đội ... Đó là hậu
trường của việc hình thành Kinh Tin Kính.
1,1. Cuộc khủng hoảng Ario
Từ thế kỷ thứ II,
để bảo vệ niềm tin độc thần của Thánh Kinh, nhiều người
tìm nhưng cách giải thích khác nhau về niềm tin Ba Ngôi trong công thức rửa
tội. "Ảo thân thuyết" nói Đức Giêsu có thân xác giả, "Nghĩa tử
thuyết" nói Ngài là người thường được Chúa nhận là Con. Kẻ thì bảo Cha ở
trong Con và đồng thụ nạn, kẻ lại nói Con thấp hơn và lệ thuộc vào Cha. Họ thường
dựa vào Ga 14,28 : "Cha Tôi cao trọng hơn Tôi" để quả quyết như vậy.
Sau biến cố 313,
các cuộc tranh luận không dừng ở địa phương nữa nhưng lan nhanh khắp đế quốc.
Nổi bật là lối giải thích của Linh mục Ario. Ario phụ trách giáo xứ Baucalis
thuộc giáo phận Alexandria ,
vốn đạo đức và tài năng, được nhiều người mến chuộng. Ông muốn bảo vệ Thiên
Chúa duy nhất, chỉ mình Ngài không có khởi sự. Vì thế ông nói Chúa Con có khởi
sự được tạo dựng, không đồng bản tính với Cha; Ngôi Lời bất toàn, đồi thay và
chỉ được gọi là Chúa ...
Alexandro, Giám
mục Alexandria
không chấp nhận điều đó. Chúa Con, Lời Thiên Chúa phải hiện hữu từ vĩnh cửu như
Cha. Vì nếu Ngài không phải là "Thiên Chúa làm người" thì con người
không thể được Thiên Chúa hóa và không được cứu độ. Năm 318, Ario và một số
thân hữu bị vạ tuyệt thông. Nhưng ông không bỏ cuộc, ông thuyết phục nhiều bạn
học cũ trong đó có Giám mục Eusebio. Cuộc tranh luận giữa hai phe bùng nổ từ
trong rạp hát ra đến chợ búa, công trường. Ario còn viết một số tác phẩm và ca
vè dân gian bênh vực cho ý tưởng của mình.
Hoàng đế
Constantin, sau khi thống nhất đế quốc, đã tìm cách vãn hồi trật tự. Ông nghĩ
đây là cuộc tranh luận về từ ngữ như triết học nên ra lệnh cho đôi bên phải
giải hòa. Đến khi thất bại, hoàng đế nghe Giám mục Osio cố vấn, viết thư mời
tất cả các Giám mục về dự công đồng. Ông tin rằng sự hiệp nhất của Giáo Hội ảnh
hưởng lớn đến sự hiệp nhất của đế quốc.
Có đến 318 nghị
phụ từ khắp nơi đồ về (300 Giám mục Đông phương, 2 linh mục Roma). Mới hôm nào
còn trốn chui trốn nhủi, nay các nhà anh hùng bỡ ngỡ đoàn tụ trong lâu đài lộng
lẫy. Cuộc tranh luận kéo dài một tháng trong ôn hòa. Nhóm Ario bị kết án. Giám
mục Osio đưa ra bản Kinh Tin Kính trong đó khẳng định Chúa Con đồng bản tính (Homoousios) với Chúa Cha, xác định Cha
và Con bằng nhau hoàn toàn. Ario và 2 giám mục theo ông bị đày qua Ba Tư. Ba
giám mục khác không đồng ý nhưng ký nhận, về sau rút lại, bị phát lưu qua Gallia .
Ngoài ra công
đồng cũng chỉnh đốn một số kỷ luật Giáo Hội : ngày lễ Phục Sinh vào chúa nhật,
hạn chế việc giáo sĩ sống với phụ nữ. (Công đồng Elvira năm 300 ra luật độc
thân giáo sĩ cho Tây Ban Nha). Đức cha Paphnuce tuy độc thân, đã đề nghị đừng
áp đặt luật đó cho mọi giáo sĩ. Về thứ tự các Giáo đoàn lớn ta thấy : Roma, Alexandria , Antiokia,
Giêrusalem.
Thỏa hiệp trong
công đồng Nicêa chẳng bao lâu bị đặt lại vấn đề. Nhiều người không đồng ý chữ
Homoousios vì không có trong Kinh Thánh. Họ cảnh giác sợ rơi vào lạc giáo không
phân biệt Cha với Con. Đa số các vùng Đông phương theo họ, trừ thánh Athanasio,
Giám mục Alexandria
(+373). Giáo hội bên Tây vẫn trung thành với Nicêa ... Để xoa dịu quần chúng,
Hoàng đế phát lưu Athanasio, mở công đồng Tyro (335), ân xá cho Ario và đón ông
về cách trọng thể (năm sau ông qua đời).
Thời hoàng đế
Constans, việc chia rẽ càng gia tăng. Tại Công đồng Sardica (343), Đông phương
đòi kết án Athanasio. Từ năm 351, hoàng đế Constantius theo hẳn Ario. Phía
Latinh bị lưu đày : đức Liberio, thánh Hilario, giám mục Osio thành Cordoba ...
Đức Liberio bị áp lực, đã kết án những ai dùng từ homoousios để truyền bá
thuyết Sabellius (Hình thái Thuyết : một Chúa với ba hình thức). năm 359, hoàng
đế thành công khi đưa ra công thức homoios : "Chúa Giêsu giống Chúa Cha theo
như Kinh Thánh dạy". Thánh Giêrônimô tỏ ra đau đớn kêu lên : "Cả
thiên hạ bỡ ngỡ, khi thấy mình thuộc về Ario". Riêng Antiokia bị chia
thành năm nhóm với những Giám mục cho môỵi nhóm.
Cùng trong hướng
suy nghĩ của Ario, khoảng năm 360, Macêdonius, giáo chủ Constantinopoli chối
Thánh Linh không phải là Thiên Chúa. Một vấn nạn thần học mới được đặt ra.
Thánh Basilio và Grêgoriô Naziano đã tìm thấy một cách trình bày mới, bằng cách
phân biệt bản tính (Ousia) và ngôi vị (Personna). Một Chúa, một bản tính, ba
ngôi vị. Lối trình bày mới vừa diễn tả được việc đồng bản tính vừa thoát khỏi
"Hình Thái Thuyết" của Sabellius.
Hoàng đế
Théodose, người tuyên bố Kitô giáo là quốc giáo, đã quyết định chấm dứt các
tranh luận. Năm 381, hoàng đế triệu tập Công đồng Constantinopoli với 181 giám
mục Đông phương, nhưng 36 vị theo Macêdonius bỏ về. Công đồng lấy lại Kinh Tin
Kính Nicêa và thêm lời tuyên tín về Thánh Thần "Tôi tin kính Đức Chúa
Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha mà ra,
Người cùng được phụng thờ và tôn kính với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con"...
Về Đức Chúa Con,
công đồng thêm : "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong
lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người...". Các giám mục Pháp và Bắc Ý cũng
họp nhau tại Aquiléa truất phế các giám mục theo Ario. Phe Ario biến dần, chỉ
còn sót lại nơi dân German do giám mục Wulfila phổ biến.
2.1. Tranh luận về Kitô học
Sau khi xác tín
về Chúa Ba Ngôi, các tranh luận xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể, việc kết hiệp
giữa thiên tính Ngôi Lời và con người Đức Giêsu. Ngôi Lời vĩnh cửu còn Đức
Giêsu được sinh ra, chịu chết. Ta có thể nói Thiên Chúa sinh ra, chịu nạn chịu
chết không?
Appolinarius,
giám mục Laodicea
(+390), bạn của thánh Athanasio tìm cách giải quyết. Theo triết học thời đó,
Đức Giêsu như mọi người gổm xác và hổn. Nơi Ngài linh hổn được Ngôi Lời đảm
nhiệm. Đức Giêsu không thể phạm tội. Nhưng ngay sau đó, nhiều người có cảm
tưởng Appolinarius phủ nhận việc cứu chuộc. Họ nói : chỉ những gì của con người
được Đức Kitô đảm nhiệm mới được cứu độ.
Thời đó có hai
khuynh hướng thần học :
Tại Alexandria : người ta khởi từ Ngôi Lời, nhấn mạnh sự duy nhất nơi Đức Kitô.
Đức Kitô là Ngôi Lời mang xác phàm, đó là điều kiện để con người được thần hóa (lược đồ Ngôi Lời - Xác).
Tại Antiokia : người ta nhấn mạnh về hai phương diện nơi Đức Kitô, khởi từ
hai bản tính để đi đến thống nhất. Họ cố bảo vệ trọn vẹn nhân tính Đức Giêsu (lược đồ Ngôi Lời - Người).
Hai quan điểm
trên đưa đến cuộc tranh luận gay gắt giữa hai đối thủ tương xứng là thánh
Cyrillo d'Alexandria và Nestoriô ở Constantinopoli. Vị Giám mục ở đế đô, vốn
nguyên quán Antiokia, là nhà hùng biện đầy nhiệt huyết. Khoảng năm 424 ông cấm
các tín hữu khẩn cầu Đức Maria như Théotokos, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Theo ông,
Kinh Thánh không có hạn từ này và Đức Maria chỉ là Mẹ của nhân vật Giêsu. Và
như thế, Đức Giêsu chỉ được phúc mặc lấy Thiên Tính, thân thể ngài là đền thờ
của Ngôi Lời (2 ngôi vị).
Ngược lại, thánh
Cyrillo muốn bảo vệ sự duy nhất nơi Đức Kitô và lòng tin chung của tín hữu.
Ngài bênh vực Đức Kitô gần như chỉ có một bản tính và liên lạc với đức Celestinô
I kết án Nestorio. Ngài yêu cầu Nestorio ký vào bản văn xác định nơi Đức Giêsu,
Ngôi Lời và Con người kết hợp thành một. Nestorio liền nhờ bạn hữu ở Antiokia
là các giám mục Gioan và Theodoret tố cáo Cyrillo theo Appolinarius. Thấy tình
hình xáo trộn, hoàng đế Théodose II liền triệu tập Công đồng Ephesô, yêu cầu
các tỉnh đều cử đại biểu. Thánh Augustino cũng được mời, nhưng qua đời trước
khi đến công đồng.
Các sử gia đương
thời cho ta thấy nhiều xung đột trong diễn biến công đồng. Thánh Cyrillo được
Roma ủy quyền chủ tọa, đã đưa theo 50 Giám mục vùng Ai Cập, rồi cùng với 110 vị
ở Palestina và Tiểu Á, đã quyết định khai mạc công đồng khi các giám mục vùng
Antiokia và Syria chưa kịp đến, mặc cho đại diện cho hoàng đế và 60 Giám mục
yêu cầu hoãn cuộc họp.
Chỉ trong một
ngày, Công đồng truất chức Nestorio vắng mặt, cùng 12 mệnh đề bị kết án. Dân
chúng biểu lộ niềm hân hoan và chúc mừng Công đồng bằng cuộc rước đuốc vĩ đại
đêm 22.6. Với giới bình dân, Đức Kitô đã thắng lạc giáo và tín điều Mẹ Thiên
Chúa được xác định.
Các nghị phụ
thuộc phe Nestorio đến trễ phản đối bản văn của thánh Cyrillo, họ kết án
Cyrillo và nhóm của ngài. Người ta không rõ ai trong các Giám mục không bị kết
án nữa. Viên đại diện hoàng đế liền ra lệnh bắt cả hai vị, Thánh Cyrillo trốn
kịp, được dân Alexandria
tiếp đón trọng thể. Còn Nestorio bị lưu đày và qua đời tại Lybia.
Nội dung tín lý
của công đồng Ephêsô không nhiều, và chỉ có một văn kiện kết án Nestorio. Các
vị Giám mục Tiểu Á không chấp nhận lối trình bày của Cyrillo, các ngài cho rằng
nhiều từ ngữ chưa chỉnh. Công đồng Ephesô chỉ xác định lại thế giá công đồng
Nicea, bênh vực Đức Kitô duy nhất. Không còn ai tranh cãi về "Mẹ Thiên Chúa". Khoảng 20 tháng trôi qua (năm 433) nhờ
Giám mục Gioan Antiokia , một công thức mới đã được thỏa thuận "Có sự hợp
nhất của hai bản tính (...) và vì sự hợp nhất này, chúng tôi tuyên xưng Đức Nữ
Trinh là Mẹ Thiên Chúa". Công thức này được Thánh Cyrillo chấp nhận và đức
Sixto II châu phê.
Thế nhưng thỏa
hiệp 433 không làm vừa lòng những thành phần cực đoan của cả hai phía.
Theodoret miền Syria
luôn bảo vệ hai bản tính của Đức Kitô, không nói gì đến việc "kết hợp mà
không lẫn lộn". Viện phụ Eutykes (+454) ở Constantinople ,
cho rằng nơi Đức Kitô, Thiên Tính bao trùm nhân tính đến độ chỉ còn thiên tính
(Monophysis). Giám mục đế đô là thánh Flavianô liền tổ chức một công đồng kết
án Eutykes. Vị này cầu cứu Tòa Thánh và Dioscorus là Giám mục Alexandria .
a/. Mẻ cướp
Epheso (449) : Hoàng đế Theodose II bạn của Eutykes mời tất cả những Giám mục
ủng hộ vị này về dự hội nghị Epheso. Đức Leo I có cử ba đại biểu và gửi thư tỏ
lập trường, nhưng vị Giám mục chủ tọa là Dioscorus, bạn Eutykes, không cho đọc
lá thư đó. Nhóm Eutykes chỉ phải ký nhận Kinh Tin Kính Nicea. Ngược lại, Giám
mục nào nói Đức Kitô hai bản tính thì đều bị truất chức. Quân lính triều đình
được mời đến để "đánh chết những kẻ phân biệt hai bản tính". Thánh
Flavianô bị đánh trọng thương rồi chết. Giám mục Theodoret báo tin cho Roma và
Đức Leo liền phi bác "mẻ cướp Epheso". Thế nhưng học thuyết Eutykes
được công khai tuyên truyền cho đến hoàng đế qua đời.
b/. Công đồng
Calcedonia (451): Tân hoàng đế Marcianus (450-457) đứng về phía Roma. Hoàng đế
yêu cầu Giáo hoàng đến chủ tọa công đồng. Nhưng Đức Lêo I không thể đi được vì
Hung Nô đã xâm lăng đất Ý. Ngài cử sứ giả đến chủ tọa công đồng Calcedonia.
Giám mục Dioscorus cũng đến và đề nghị kết án đức Lêo, ngược lại, ông bị tố cáo
về tội lộng hành, bị cách chức và lưu đày. Thánh Flavianô được phục hồi.
Về Giáo lý, Kinh
Tin Kính Nicea-Constantinopoli và thơ đức Lêo được đem ra đọc. Ngay đó các nghị
phụ đã đồng thanh tung hô : "Đây là đức tin các Giáo phụ, đức tin các Tông
đồ. Tất cả chúng tôi đều tin như vậy... Phêrô đã nói qua miệng Lêo". Sau
khi áp dụng kỷ luật cho những người tham gia vào mẻ cướp Ephêso, Công đồng đưa
ra một công thức Đức Tin dựa vào hai bản văn trên : "Đức Kitô, chúng tôi
nhìn nhận có hai bản tính không lẫn lộn, biến đồi, phân chia hay lìa nhau. Sự
khác biệt giữa hai bản tính không bị mất vì kết hiệp, trái lại các đặc tính của
môỵi bản tính vẫn nguyên vẹn trong một ngôi vị duy nhất".
Từ nay nền tảng
Kitô học đã rõ rệt. Đức Kitô một ngôi vị và hai bản tính.
Công đồng Nicea
khoản số 4, xác định sự liên đới giữa các giám mục trong từng vùng, được qui tụ
và phân phối do một giám mục thuộc thành phố lớn. Đó là tiền thân của chức
Thượng phụ Giáo chủ sau này. Khi đặt một Tân giám mục : phải được giấy đồng ý
của các Giám mục trong vùng; được vị Thượng Phụ châu phê và được ba Giám mục
tấn phong. Công đồng Nicea chỉ nói đến bốn tòa Giám mục lớn là Roma, Alexandria , Antiokia và
Giêrusalem.
Khoản 3 của Công
đồng Constantinopoli xác định khác hơn : "Giám mục Constantinopoli có
quyền ưu vượt liền sau Roma, vì thành phố này là Roma mới". Từ nay Giáo
hội đế đô đứng thứ hai trong "ngũ đầu chế" của Giáo hội thời đó, như
một số người thường nói.
Ưu thế Giáo hội
Roma, thủ đô đế quốc, nơi thánh Phêrô tử đạo là điều rõ rệt. Một đàng giám mục
Roma can thiệp vào sinh hoạt các Giáo hội địa phương, và đàng khác các Giáo hội
Đông phương vẫn nại đến Roma khi có những khó khăn về tín lý. Thế nhưng, nếu tại
Calcêdonia các Nghị phụ đã coi đức Lêo là hiện thân của Phêro, thì cả đến thời
đức Grêgorio, Đức Thánh Cha vẫn là một Giám mục giữa các giám mục. Theo lối nói
thời nay, ngài cùng với "tập đoàn" Giám mục cai quản Hội Thánh.
TOÁT YẾU
Kinh Tin Kính là
công thức tuyên xưng ngắn gọn của các tín hữu Kitô. Niềm tin của họ đặt nền
trên mạc khải trong Thánh Kinh, thế nhưng cần phải hiểu mạc khải đó ra sao?
Kinh Tin Kính là kết quả của bốn công đồng chung Nicea, Constantinopoli,
Epheso, và Calcêdonia.
Hai Công đồng đầu
tiên diễn đạt niềm tin Một Chúa - Ba Ngôi :Công đồng Nicea (325) trả lời cho
Ario chối Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ; Công đồng Constantinopoli (381)
giải đáp cho Macedonius không tin Thánh Thần là Thiên Chúa.
Hai Công đồng kế
tiếp xoáy mạnh vào mầu nhiệm ChúaKitô nhập thể : khởi từ việc Nestorio không
nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng Epheso (431) xác quyết Ngài chỉ có
một Ngôi vị và tín điều Mẹ Thiên Chúa. Sau đó Eutykes nói Đức Giêsu chỉ có một
bản tính, Công đồng Calcedonia (451) xác định việc Ngôi Hiệp cả thiên tính lẫn
nhân tính nơi Ngài.
Trong tinh thần
Vatican II về đại kết, chúng ta cần cảm thông với sự chân thành của những anh
em "lạc giáo". Thường vì quá bênh vực một khía cạnh của chân lý, các
vị để sót mất khía cạnh khác.
-----------------------------------------------
1. Bầu khí cuộc
tranh luận đạo lý với Ario?
2. Nội dung chính
của Công đồng Nicea?
3. Định nghĩa
Ngôi vị và Bản tính?
4. Hai khuynh
hướng Alexandria
và Antiokia?
5. Những lối viết
về Đức Kitô ngày nay có thể theo suy nghĩ của Eutykes chăng? Thí dụ.
6. Bài học lịch
sử bạn rút được nếu bạn phải tranh luận về đức tin?
7. Quyền tối
thượng của Giáo Hoàng Roma?
*****************************************
BÀI ĐỌC THÊM
Bản kinh chúng
ta đọc hiện nay thường được coi là bản kinh của thánh Giám mục Césaire, Pháp,
thế kỷ VI. So với bản gốc của Kinh Tin Kính các tông đồ, nhưng chữ màu xanh lá
đã được thêm sau này.
"Tôi tin
kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất / Tôi tin kính ĐCGS là Con Một Đức Chúa
Cha cùng là Chúa chúng tôi / Bởi phép ĐCTT mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng trinh /chịu nạn thời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng
đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác / Xuống ngục tổ tông, ngày
thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại / lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép
tắc vô cùng / Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. / Tôi
tin kính Đức Chúa Thánh Thần. / Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công, / Tôi tin phép tha tội / Tôi tin xác
loài người ngày sau sống lại / Tôi tin hằng sống vậy. Amen
(D. Rops; L'Eglise des Apôtres et des Martyrs, p
246-247).
Nicêa (325),
Constantinopoli (381), Ephêso (431), Calcedonia (451), Constantinopoli II
(553), Constantino-poli III (680), Nicea II (787), Constantinopoli IV(869),
Laterano I (1123), Laterano II (1139), Laterano III (1179), Laterano IV (1215),
Lyon I (1245), Lyon II (1274), Vienne (1311-12), Constancia (1414-18),
Florencia (1439), Laterano V (1512-17), Tridentino (1545-63), Vatican I
(1869-70), Vatican II (1962-65).
Ni, Co, Ê, Ca
/ Co, Co, Ni, Co / La, La, La, La
Ly, Ly, Vi, Co / Flo, La, Tri, Va, Va ...
Ly, Ly, Vi, Co / Flo, La, Tri, Va, Va ...
Nhằm duy trì an
ninh địa phương, hoàng đế khuyên các phe tranh luận hãy làm hòa. Ông cho rằng
đây chỉ là cuộc cãi cọ về từ ngữ. Do thất bại, ông sẽ triệu tập công đồng Nicea
... Chúng có thể
giúp luyện trí óc, nhưng chúng phải được đóng khung trong nội bộ chúng ta, chứ
không được nhẹ dạ tuyên truyền trong những buổi họp công khai, hoặc dại dột nói
cho quần chúng. Thực ra mấy kẻ hiểu được một vấn đề khó khăn đến thế, và ai có
thể giải thích thỏa đáng?
Các ông đâu có gì
khác nhau về các giới luật, cũng đâu thêm thắt tín điều nào mới liên quan đến
việc tôn thờ Thiên Chúa. Cả hai đều cùng một tâm tư nên dễ dàng hòa hợp với
nhau. Thế mà các ông cứ ngoan cố cãi vã về những chuyện không đâu, lai còn lợi
dụng uy tín trong dân để kéo họ vào cuộc tranh cãi. Thật không phải lẽ và bất
xứng.
Các triết gia
cùng đi tìm chân lý vẫn có thể không đồng ý với nhau về nhiều điểm. Tuy nhiên,
những khác biệt này không làm họ mất sự hiệp nhất để cùng tìm kiếm. Các ông là
những thừa tác viên của Thiên Chúa, lẽ ra các ông phải hiệp nhất trong trong
lời tuyên xưng cùng một tôn giáo mới phải... Hãy giữ sao giữa các ông có sự
chân thành và thân hữu, có chân lý của đức tin, có việc tuân thủ luật Chúa. Hãy
cậy dựa vào đức bác ái và đưa dân chúng trở lại hiệp nhất với nhau.
(Eusebio, Cuộc đời Constantin, II,69 - JC. Để đọc LSGH I,
p.66)
Các thừa tác viên
ưu tú của thiên chúa đã qui tụ lại từ tất cả các Giáo Hội trong toàn cõi Châu
Âu, Libye, Tiểu Á. Một ngôi nhà cầu nguyện duy nhất, như được nới rộng bởi quyền
năng Thiên Chúa, đã tập họp được một số người Syrie, Cilicie, Phenicie, Ả rập,
Palestine và có cả những người Ai cập, Thébaide, Libye, Mésopotamie. Giám mục
Ba tư cũng có mặt tại đại hội. Scythie cũng có giám mục của mình; Pont,
Galatie, Pamphylie, Cappadoce, Tiểu Á, Phrygie cũng đã gửi các đại biểu, Những
người Thrace và Macédomie, Acheén và Epirote, và giữa những vị này có những vị
từ xa tới; Cũng từ Tây Ban Nha, một vị giám mục danh tiếng nhất (Osius)đến dự
với những vị khác; giám mục của đế đô (Roma) không dự được vì già yếu nhưng
ngài cử các linh mục đại diện...
Các giám mục tiến
vào trong đại sảnh và ngổi ghế theo thứ bậc của mình... Ngay khi nghe báo hiệu
Hoàng đế đến, tất cả các giám mục đứng dậy,và đúng lúc đó, nhà vua tiến vào
giữa những bậc vị vọng. Ông xuất hiện như thiên thần của Chúa. Ông làm cho mọi
người chóa mắt bởi long bào đỏ rực, bởi vàng ngọc trang sức chói ngời.
(Cuối công đồng)
Lễ kỷ niệm 20 năm trị vì của Hoàng đế được cử hành trong mọi tỉnh thành, với
những lễ hội tưng bừng trọng thể. Hoàng đế mời các thừa tác viên của Chúa dự
tiệc. Tất cả các giám mục đều tham dự. Không lời lẽ nào diễn tả nỗi biến cố
này. Tại tiền sảnh của cung điện, đội vệ binh và quân lính được bố trí đứng
chung quanh, với gươm trần trên tay. Không chút sợ hãi, những người của Chúa đi
qua giữa quân lính tiến vào cung điện. Một số vị ngổi chung bàn với Hoàng đế.
Những vị khác tùy nghi an vị trên những giường được xếp vòng tròn. Họ có cảm
tưởng như được nếm trước hương vị Vương quốc Chúa Kitô, và những gì xảy ra có
vẻ là mơ hơn thực. Sau bữa tiệc huy hoàng đó, Hoàng đế một lần nữa chứng tỏ sự
hào phóng của mình bằng việc ban thưởng cho mỗi người hiện diện tùy theo công
trạng và phẩm tước của người đó.
(Eusèbe, Cuộc đời Constantin III,15,16 - JC Để đọc LSGH
I,p.97)
Socrate
(380-440), luật gia ở Constantinople . Trong
tác phẩm "Lịch sử Giáo hội", đã tiếp nối sử gia Eusèbe thuật lại các
biến cố tôn giáo từ năm 305-439. Vì ông sao chép tài liệu đúng từng chữ, nên
đây là nguồn thông tin vô giá.
"Paphnuce là
giám mục của một thành phố vùng Thebaida - thượng. Ngài có lòng đạo đức trỗi
vượt, làm nhiều phép lạ. Trong thời bắt đạo, ngài bị móc mất một mắt. Hoàng đế
đặc biệt tôn kính ngài, thường mời vị giám mục và cung điện và hôn lên con mắt
đã mất ... Khi các linh mục thỏa thuận định ra luật mới buộc các Giám mục, linh
mục và phó tế sống cách ly người vợ mà họ đã kết hôn khi còn là giáo dân.
Khi được xin ý
kiến, Paphnuce đứng lên giữa các Giám mục, yêu cầu không nên đặt một gánh nặng
đến thế lên vai các giáo sĩ, linh mục, vì hôn nhân đáng qúi trọng và việc chăn
gối không có gì xấu ; luật quá khắt khe có thể làm hại đến Giáo hội, không phải
ai cũng có khả năng tiết dục hoàn hảo và còn những người vợ của họ sẽ không giữ
được đức khiết tịnh. Đức khiết tịnh ở đây hiểu là việc chăn gối hợp pháp. Dĩ
nhiên, những ai đã nhập hàng Giáo sĩ thì không được kết hôn nữa đúng như truyền
thống cổ kính của Giáo hội, nhưng không nên buộc những kẻ đã kết hôn khi còn là
giáo dân phải bỏ vợ.
Paphnuce bênh vực
ý kiến này mặc dầu không những ngài chưa bao giờ lấy vợ, mà ngài cũng không hề
biết đến phụ nữ, ngài được giáo dục từ nhỏ trong tu viện và sáng chói về nhân
đức khiết tịnh. Tất cả các Giám mục đồng ý với ngài, không bàn thêm nữa, để cho
những Giáo sĩ đã lập gia đình tự mình quyết định.
(Socrate, Lịch sử Giáo hội I,11)
Trong những danh
xưng dành cho Thiên Chúa, có danh xưng nào không phù hợp với Chúa Thánh Thần?...
Đó là khi chúng ta dùng tất cả những từ ngữ về TC để giảng dạy, khi ta còn thêm
một tên gọi khác để kêu cầu ngài là Đấng Bầu Chữa đệ nhị, (Paraclet, Ga 14,16)
như thể là Thiên Chúa đệ nhị, đang khi họ biết rằng xúc phạm đến Chúa Thánh
Thần là tội duy nhất không được tha ; khi biết hình phạt nặng nề mà Anania và
Saphira phải chịu vì lừa dối Thánh Thần tức là lừa dối Thiên Chúa chứ không
phải lừa dối loài người (Cv 5) ;
Như vậy bạn nghĩ
chúng ta công bố Thần tính của Chúa Thánh Thần hay công bố điều gì khác? Nếu
bạn nghi ngờ chân lý này và nếu người ta còn phải dậy bạn điều đó nữa thì trí
óc bạn hẳn là quá mê muội và bạn đã xa với Thánh Thần đến như thế nào !
Những vấn đề trên được bàn đến khắp nơi trong thành phố: từ
đường mòn, ngã tư đến công trường, đại lộ. Nơi những người bán quần áo, kẻ đổi
tiền, người bán tạp hóa. Nếu bạn hỏi một anh đổi tiền y sẽ trả lời bạn bằng một
tiểu luận về "được sinh ra và không được sinh ra". Nếu bạn hỏi giá cả
bánh mì, anh bán bánh mì sẽ trả lời: "Chúa Cha lớn hơn Chúa Con, Chúa Con
phải dưới quyền Chúa Cha". Nếu bạn hỏi nhà tắm đã sẵn nước chưa, anh quản
lý sẽ tuyên bố Chúa Con được dựng nên từ hư vô . Tôi không biết gọi thứ bệnh
này bằng từ ngữ gì, cuồng nhiệt hay điên loạn (...)
(Gregorio Nyssen :"Về Thần Tính Chúa Con và Chúa
Thánh Thần" )
Gregorio de
Naziano, Giám mục Constantinople cố gắng làm
cho các Giám mục nhất trí về những điểm đang tranh cãi, nhưng vô hiệu.
"Các Giám
mục huyên thuyên ríu rít như đàn sáo họp bầy. Như tiếng ổn ào của trẻ con, âm
thanh của một xưởng thợ mới mở, như cơn gió lốc, và như cơn bão táp thật sự.
Các vị tranh cãi nhau vô trật tự, và như bầy ong vò vẽ, các ông châm chích
thẳng vào mặt nhau, ngay cùng một lúc. Các vị cao niên đáng kính , thay vì kiềm
chế bớt các vị trẻ , lại theo đuôi hùa vào . "
(Gregorio de Naziano, Poème sur sa vie, V.1680 )
Hoàng đế lập tức
ban chỉ dụ triệu tập công đồng tại Ephêsô. Ngay sau khi lễ phục sinh, Nestorio
đã đến với đông đảo dân chúng, tại đây ông gặp gỡ nhiều giám mục khác. Cyrillo,
giám mục Alexandria
thì chậm hơn, khoảng lễ Hiện xuống mỚi đến. Juvénal, giám mục Giêrusalem đến
sau lễ Hiện xuống năm ngày. vì giám mục Antiokia là Gioan cố tình trì hoãn
chuyến đi nên các giám mục khác bắt đầu xôn xao bàn tán.
Mở đầu cuộc tranh
luận, Cyrillo hùng hổ tấn công với lời lẽ mạnh mẽ để làm rối trí người mà ngài
không ưa là Nestorio. Trong khi đa số các giám mục tuyên xưng Đức Kitô là Thiên
Chúa, thì Nestorio lại nói với Cyrillo: "Tôi không thể gọi con người đã
từng là đứa trẻ hai ba tháng là Thiên Chúa, vì vậy tôi vô tội về máu của ngài,
từ nay tôi không họp chung với ngài nữa".
Từ đó, Nestorio
họp riêng với các gám mục theo khuynh hướng của ông. Các giám mục còn tiếp tục
họp công đồng với Cyrillo đòi Nestorio phải ra tòa xét xử. Nestorio trì hoãn
không đến, cho tới khi giám mục Gioan d'Antiokia đến dự công đồng. Cyrillo và
các vị khác cứu xét các bài giảng có liên quan đến vấn đề này của Nestorio, các
vị phán quyết là chúng có nội dung nghịch đạo và chống báng Chúa Kitô, họ liền
cất chức ông. Các giám mục phe Nestorio liền họp riêng và kết án Cyrillo và
giám mục Êpheso là Memmon. Gioan thành Antiokia đến sau đó, trách cứ Cyrillo đã
gây nên xáo trộn vì hấp tấp, Gm Gioan tuyên bố cất chức Cyrillo. Vị này hợp với
GM Juvénal trả đũa bằng việc cất chức Gioan.
Khi Nestorio thấy
cuộc tranh luận đi quá xa đến chỗ ly giáo, ông tỏ ra hối tiếc về chuyện đã xảy
ra và nói : "Muốn gọi đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì gọi, miễn là đừng cãi
nhau nữa". Nhưng dù Nestorio đã đổi quan điểm, không ai đón nhận ông trở
lại, ông bị đày đi Oasis, hiện vẫn sống ở đó...
(Socrate, LSGH, VII,34 - JC Để đọc LSGH I, p.102
Nhờ ơn Chúa, bản
tuyên tín (Credo) Nicea - Constantinopoli thực là sáng suốt và bổ ích, đủ để
giúp hiểu biết trọn vẹn và củng cố đức tin chân thật... Nhưng vì có những kẻ ra
tay phá hoại việc giảng dạy chân lý, do những sai lạc đặc biệt về tín lý, họ đã
đưa ra những lý thuyết vô ích ; Có những kẻ dám giải thích sai lạc mầu nhiệm
Nhập thể của Chúa chúng ta, khi họ từ chối tước hiệu Théotokos (Mẹ Thiên Chúa)
được dành cho Đức Nữ Trinh ; kẻ khác đưa tới sự "lẫn lộn, pha trộn",
khi điên khùng nghĩ rằng xác phàm và thần tính chỉ còn là một bản tính duy nhất
và quan niệm một cách quái gỡ rằng vì có sự pha trộn, bản tính thần linh của
Chúa Con duy nhất có thể đau khổ.
Vì những sự ấy
đang âm mưu chống lại chân lý, Đại Công Đồng chung hôm nay họp tại đây, dạy lại
giáo thuyết vững chắc đã được giảng dậy từ thuở ban đầu, trước hết quyết định
rằng đức tin của 318 nghị phụ (công đồng Nicea) phải được tôn trọng cách hoàn
toàn nguyên vẹn. Công đồng cũng xác nhận giáo huấn được ban hành sau đó về bản
chất của Chúa Thánh Thần do 150 nghị phụ họp tại Đế Đô (Constantinopoli năm
381) để đối phó với phái chống Thánh Thần: Các ngài cho mọi người biết là các ngài
không thêm gì vào giáo huấn của các vị tiền nhiệm như thể giáo huấn trước đây
còn thiếu sót, nhưng các ngài diễn tả minh nhiên suy nghĩ của các ngài về Chúa
Thánh Thần dựa vào chứng từ của Kinh thánh, để chống lại những kẻ phủ nhận
Thánh Thần là Thiên Chúa...
Noi theo các
Thánh phụ, tất cả chúng tôi đồng thanh dạy chỉ có một và cùng một Chúa Con, Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta, chính Ngài toàn hảo trong thần tính và cũng chính
ngài toàn hảo trong nhân tính, cũng chính ngài là Thiên Chúa thật và là người
thật, gồm một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha
theo thần tính, đồng bản tính với chúng ta theo nhân tính, giống chúng ta mọi
đàng ngoại trừ tội lỗi, sinh ra bởi Chúa Cha từ trước muôn đời xét về thần
tính, nhưng vào những ngày sau hết, "vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta,
đã sinh bởi Đức Maria Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa (Théotokos) xét về nhân tính, chỉ
một và cùng một Đức Kitô, là Chúa Con, là Chúa, là Con duy nhất mà chúng tôi
nhìn nhận nơi Ngài có hai bản tính, không lẫn lộn, không thay đổi, không chia
cắt, kơông phân ly; Sự khác biệt của hai bản tính hoàn toàn không bị tiêu tan
bởi sự phối hợp, nhưng ngược lại các thuộc tính của mỗi bản tính vẫn được
nguyên vẹn và gặp gỡ nhau trong một ngôi vị (hypostase) duy nhất (...)
(P.Th Calelot Lịch sử các Công Đồng chung)
THEO NICÊA năm 325
4. Giám mục được
đặt lên do tất cả các giám mục trong tỉnh. Trong trường hợp cấp bách hoặc vì
đường xá xa xôi, thì ít ra cũng phải có ba giám mục hiện diện và cử hành nghi
lễ đặt tay, với giấy ủy quyền của những vị vắng mặt. Tại mỗi tỉnh, tổng giám
mục sẽ phê chuẩn việc tấn phong đó.
6. Chớ gì tập
quán cổ truyền đang áp dụng tại Ai cập, Libie và Pentapole được duy trì, nghĩa
là giám mục Alexandria giữ quyền tài phán trên tất cả các tỉnh này, vị giám mục
Roma cũng có quyền như thế. Giáo hội Antiokia và các giáo hội của những tỉng
khác cũng giữ những quyền đã có trước đây.
15. Vì có nhiều
bất ỗn và chia rẽ, tốt nhất là bãi bỏ tập quán trái luật ở một vài vùng, nghĩa
là cấm các giám mục, linh mục và phó tế chuyển đổi từ thành phố này sang thành
phố khác. Ai đi theo lầm lạc cũ, chống lại luật này thì viậc chuyển đỗ của họ
vô hiệu, và buộc kẻ đó phải trở về giáo hội cũ, nơi đương sự đã được phong chức
để phục vụ.
THEO
CONSTANTINOPOLI năm 381
2. Các giám mục
"khu vực" không can thiệp vào những giáo hội không thuộc quyền mình,
cũng không được gây bất ỗn cho giáo hội đó, nhưng cứ theo luật, giám mục
Alexandria chỉ điều hành công việc ở Aicập, các giám mục Đông phương thì chỉ
điều hành công việc ở Đông phương ; vẫn giữ những đặc quyền dành cho giáo hội
Antiokia theo các điều khoản của công đồng Nicea ; các giám mục ở Tiểu Á chỉ
điều hành công việc ở Pont, các vị ở Thrace thì lo việc của Thrace ...
3. Giám mục Constantinople có quyền danh dự kế sau giám mục Roma, vì
thành phố này là Roma mới.
KHOẢN 28 CALCÊDONIA
năm 451
Theo toàn thể các
sắc lệnh của các Thánh phụ, công nhận khoản luật của 150 giám mục (của
CĐ.Constantinopoli) vừa được đọc, chúng tôi quyết định và biểu quyết giống như
thế về các đặc ân dành cho Giáo hội rất thánh ở Constantinople là Roma mới. Các
nghị phụ quả đã chấp nhận cho Roma cũ những đặc quyền của nó, bởi vì đó là đế
đô.
Nay cũng vì lý
do đó, 150 giám mục rất đáng kính đã chấp nhận những đặc quyền tương đương cho
Tòa rất thánh của tân đế đô, xét một cách hợp lý rằng : thành phố này có sự
hiện của hoàng đế, của thượng viện, và thừa hưởng cùng những đặc quyền như cố
đô Roma; Do đó, thành phố này đóng vai trò quan trọng trong các việc của Giáo
hội, chỉ sau Roma ... (JC. Để đọc LSGH I, p.107)
-------------------------------
Source: http://s.daminhvn.net/
Hoàn cảnh ra đời kinh Tin Kính của các Thánh Tông đồ
(Bài đọc thêm)
Sau khi thánh Têphanô tử đạo, Mẹ Maria đã lo liệu an táng cho thánh nhân Têphanô. Mẹ bảo người ta thu lại máu ông để tôn kính và mang thánh giá của ông về cho Mẹ. Ngay từ ngày Linh Giáng, người ta đã treo Thánh giá để tôn sùng, theo gương Mẹ. Trong cộng đoàn tín hữu, Mẹ đã nhiệt liệt ca tụng thánh đức của vị tử đạo thanh xuân. Ông sinh ra ngày 26 tháng 12 và chết cũng vào ngày ấy trong cùng năm Chúa Giêsu tử nạn. Ông được 34 tuổi đúng từng ngày. Mẹ giới thiệu ông với cộng đoàn như là mô phạm của lòng trung thành mà tín hữu nào cũng phải noi theo.
Sau khi thánh Têphanô tử đạo, Mẹ Maria đã lo liệu an táng cho thánh nhân Têphanô. Mẹ bảo người ta thu lại máu ông để tôn kính và mang thánh giá của ông về cho Mẹ. Ngay từ ngày Linh Giáng, người ta đã treo Thánh giá để tôn sùng, theo gương Mẹ. Trong cộng đoàn tín hữu, Mẹ đã nhiệt liệt ca tụng thánh đức của vị tử đạo thanh xuân. Ông sinh ra ngày 26 tháng 12 và chết cũng vào ngày ấy trong cùng năm Chúa Giêsu tử nạn. Ông được 34 tuổi đúng từng ngày. Mẹ giới thiệu ông với cộng đoàn như là mô phạm của lòng trung thành mà tín hữu nào cũng phải noi theo.
Chính vào hồi đó, Mẹ nảy ra ý tưởng phải có một bản tổng yếu những chân lý đức tin, để mọi tín hữu đều có thể học hỏi dễ dàng. Bản ấy sẽ hợp nhất tất cả mọi người lại và sẽ là cây cột chính của Giáo Hội. Chính Thiên Chúa đã gợi cho Mẹ sự quan phòng đó. Nhưng trước khi đưa ra thực hành, Mẹ còn bắt chước ông Maisen, ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày để chuẩn bị. Một hôm, Mẹ cầu nguyện và được Chúa hứa trợ lực các Tông đồ trong việc soạn thảo kinh Tin kính.
Từ trên trời, chúa soi sáng cho thánh Phêrô và các Tông đồ ý định cùng nhau làm một kinh Tin kính. Các Người bàn luận với Mẹ, cùng hợp lòng ăn chay cầu nguyện mười ngày để chuẩn bị. Khi tới ngày định, thánh Phêrô trình bày vắn tắt về những lý do của bản tổng lược ấy, cử hành thánh lễ, cho Mẹ Maria và các Tông đồ hiệp lễ. Rồi tất cả đều sấp mình cầu xin ơn Thánh Linh. Một lúc sau, nghe tiếng động lớn, nhà Tiệc ly rực sáng và mọi người đều được đầy ơn Chúa Thánh Thần. Bấy giờ Mẹ Maria mời các Tông đồ đọc lên mỗi vị một khoản phải tin, theo ơn Chúa Thánh Linh soi sáng. Thánh Phêrô: bắt đầu, và các tông đồ theo thứ tự tiếp tục đọc thành bản kinh Tin kính này:
Thánh Phêrô: Tôi kính một Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo thành trời đất.
Thánh Anrê: Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, Chúa chúng tôi.
Thánh Giacôbê trưởng: Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người thụ thai, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh Gioan: Người chịu nạn đời Phongxiô-Philatô, chịu đóng đanh vào thập giá, chịu chết và an táng.
Thánh Tôma: Người xuống ngục tổ tông và ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết.
Thánh Giacôbê thứ: Người lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa là Cha toàn năng.
Thánh Philippê: Và Người sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Thánh Batôlêmi: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.
Thánh Mathêu: Tôi tin Giáo Hội Công Giáo, các thánh hiệp thông.
Thánh Simon: Tôi tin phép tha tội.
Thánh Tađêô: Tôi tin xác thể sống lại.
Thánh Máthia: Tôi tin sự sống đời đời.
Amen.
Kinh tin kính vừa làm xong, Thánh Linh chuẩn y qua những lời này: " Các con đã định rất đúng những điều phải tin". Tất cả mọi người đều cảm tạ Chúa. Mẹ Maria, để nêu một tấm gương, đã đến quì dưới chân thánh Phêrô mà nói: "Mẹ chỉ là một con sâu đất yếu hèn, Mẹ cũng xin nhân danh Mẹ và nhân danh cả các tín hữu của Giáo Hội mà tin nhận các chân lý con vừa ấn định. Mẹ xin chúc tụng Chúa đã soi sáng những chân lý ấy". Tuyên xưng đức tin xong, Mẹ hôn kính tay các Tông đồ.
Sau đó, Mẹ cho chép lại ngay các tín điều thành rất nhiều bản. Mẹ gửi cho các môn đệ đem chia cho mọi nơi, cho các môn đệ đang giúp các tín hữu, và nhờ các thiên thần hiện ra hoặc soi sáng trong tâm hồn mà trao cho những môn đệ ở xa. Các Tông đồ cũng truyền bá ra khắp Giêrusalem và các vùng phụ cận nhiều bản sao chính các Người chép. Các Người cũng nói cho mọi người biết nguồn gốc và các hoàn cảnh thiêng liêng làm nên kinh Tin kính ấy nữa.
Khắp nơi đều hết sức tôn kính tiếp nhận kinh Tin kính. Ngoài ra, để phấn khích lòng tôn kính ấy, Thánh Linh còn hiện xuống trên những ai tôn kính thiết tha hơn, lấy ánh sáng bao phủ họ và cho họ được đầy một trí thức lạ lùng. Đem bản kinh Tin kính ấy áp vào bệnh nhân, họ được khỏi bệnh, trừ được ma quỉ, cho kẻ chết sống lại. Một trường hợp lạ trái ngược xảy ra là: có một người Do Thái bất tín nọ, nghe một giáo hữu kính cẩn đọc kinh Tin kính ấy, nổi giận, muốn giật bản kinh đi, liền ngã chết ngay dưới chân giáo hữu đó. Chúa Thánh Thần cũng hiện xuống rõ ràng trên những dự tòng lúc thụ tẩy đọc bản tuyên xưng đức tin này. Ngoài ra, Người còn tiếp tục ban ơn nói tiếng lạ và xuất hiện trên những người các Tông đồ ban phép thêm sức cho. Trong thời kỳ hạnh phúc ấy, Chúa Thánh Thần ban mình ra rộng rãi, theo gương Chúa Giêsu đã vâng ý Chúa Cha bỏ trời xuống thế. Thiên Chúa quí trọng ơn cứu rỗi các linh hồn biết bao!
--------------------------------------------------
Trích "Thần đô huyền nhiệm" - phần 43
No comments:
Post a Comment