Wednesday, November 13, 2024

CHUYỆN ÔNG TƯ - CHẾT MÀ DZUI...

 Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết...

cho chet
    Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông. Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết? Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.

    Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn. Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.

    Ông chọn con đường sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa. Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói: Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười: Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?

    Đáng ra phải cáo phó bằng câu: “Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm...”. Và đây, một cáo phó khác, cũng “khóc báo” với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì? Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tĩnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.

    Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy, khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uống thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm.

    Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.

    Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tĩnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trãi qua cận tử, thì không còn sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất.

    (Về việc đóng tiền cho người khác để mua hòm và mai táng)
    Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẳng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao?

    Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém. Bạn ông Tư hỏi: - Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi. Ông Tư cười lớn nói: - Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được? Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.

    Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẳng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tổ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom. Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì.

    Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng. Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm. Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.

    Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết. Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:

    Khi Tôi Chết

    Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
    Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì?
    Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái.
    Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.

    Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
    Ai thay da mãi mãi sống trăm đời.
    Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
    Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.

    Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
    Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi.
    Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
    Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.

    Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
    Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi?
    Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
    Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,

    Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
    Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
    Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
    Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.

    Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
    Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài.
    Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
    Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.

    Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
    Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
    Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
    Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.

    Thì cũng C, H, O, N kết lại,
    Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
    Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
    Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

    Khi đọc xong bài thơ, có người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt. Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói: - Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cảm ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.

    Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe. (Ông Tư đọc bài thơ trên)

    Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý: Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó. Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm. Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuở trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói: - Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
    Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoán chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo. Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị: - Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp. Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.

    Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bã
    Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa,
    Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
    Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa.

    Cuộc đời này chỉ là một giấc mơ. Có nhiều người đang sống, nhưng vẫn còn mơ...Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm rồi, mới nhìn lại được quãng đời mình. Như một cuốn phim, quay chậm...Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp mặt nào rồi cũng chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan. Và con người nào rồi cũng trở thành cát bụi. Đây là luật Vô Thường - không ai thoát được. Có quán niệm được điều này (không qua nói miệng) trong mỗi ngày, trong hành động, và từng hơi thở...Thì sẽ tìm được hạnh phúc không xa...

NGUỒN: https://saigonecho.net/index.php/van-chuong/van-nhac-thi-si/14583-chuyen-ong-tu-chet-ma-vui

Thursday, November 7, 2024

Giải Thích Các Địa Danh DO THÁI Thời Chúa Giêsu

hoc_song_dao_logo-content

H: Xin cha cho biết rõ ràng các địa danh: Do Thái, Palestin, Israel, Đế quốc Rôma (từ thời xưa cho đến nay).

Đ: Tên nước Do thái từ Palestina tới Israel: Nước Do thái đã có nhiều tên khác nhau: Palestina, Judea, ...Israel

1. Palestina:
do_thai
- 19 Thế kỉ (quãng năm -1850) trước cgs giáng sinh, Chúa Giavê đã hứa cho Abaham "một miền đất mầu mỡ "sữa mật"(Theo sách Sáng thế 17,8 viết: Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là tất cả đất Canaan, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng."
- …Sau thời gian rất dài, nhà Giacop sang tị nạn bên Ai cập, sau 430 năm bên Aicập, Moise đưa dân xuất hành, sau 40 năm lang thang trên sa mạc,

- Mãi thế kỉ -13 (quãng năm -1200), ông Joshua mới được lệnh Giavê đem người Do thái vào chiếm nước Canaan, một nước rộng rãi, mầu mỡ bên cạnh sông Giodan.

Miền Nam nước Canaan này có một thành nhỏ gọi là Pelishit, nghĩa là đất người Pelishit (trước ta thường gọi là Philitinh). Đất này bị ông Joshua chiếm luôn và để nguyên tên Pelisha hay Palestina.

2. Israel và Giuda:

- Thế kỉ 11, Đời vua Saulê, Nước Canaan được người Do thái gọi là Nước Israel (tên mới của ông Giacop (sau khi vật nhau với thiên thần, Giacop được Thiên thần đổi tên cho là Israel).

- Sau khi vua Salomon qua đời, nước Israel bị phân chia thành 2: phía Bắc gồm 10 chi tộc vẫn giữ tên Israel. phía Nam gồm 2 chi tộc ở miền nam (Giuda và Bengiamin) thì lấy tên là Judea (Giudêu, đọc qua tiếng Tầu là Do thái).

Năm 724, dân Do thái bị vua Nabuchodonosor đầy sang nước Babylon (phía Đông)

Năm 537 vua Batư cho về nuớc cũ, cho xây lại đền thờ.



3. Palestina:

Thế kỉ 1, năm -63 trước Cgs giáng sinh), người Do thái chịu người Roma đô hộ, gọi là Palestina như trước (gồm cả dân Do thái và dân Palestina).

Vào đời Chúa Giêsu Nước Do thái chịu quyền đô hộ của người Roma, vẫn gọi là Palestina.

(Palestina là một Nước nhỏ hơn các Nước chung quanh. Palestina dài 230 cây số, ngang như ở miền Bắc Galile chừng 35 cây số).

 

 

Năm 66 dân Do thái nổi dậy chống người Roma

Năm 70, lính Roma phá thành Giêrusalem, thiêu hủy Đền thờ. Trong nhiều năm sau, người Do thái bị phân chia đi khắp thế giới.

Người Palestina cũ (theo Hồi giáo) tràn ra chiếm đất của người Do thái đã đi xa.

Một thời người Anh cai trị.

Chiến tranh du kích xảy ra.

4. Israel:
do_thai_2-content
- Năm 1948 David Ben Gurion, một tướng Do thái đọc Tuyên bố thành lập nhà nước Israel tại Tel Aviv. Tuyên bố này được Hoa Kỳ, Liên Xô và nhiều nước khác công nhận.

Một số người Do thái di tản khắp nơi, dẫn dần trở về lập lại nước, người ta lại lấy tên Israel làm tên chính thức đối nội cũng như đối ngoại.

Thời nay:

Nhưng người Palestine không chịu Dothái chiếm đất của họ đang ở sẵn, nên họ thành lập tổ chức PLO để giải phóng Palestine, đánh đuổi người Dothái .

Có 2 đảng chính của người Palestine: Fatah (nói chuyện với Israel), Hamas (diệt Israel)

(Tham khảo: Trần Văn Hiến Minh, Cuộc Đời Đức Kitô, Ra khơi, Sàigòn, 1974, Phạm Ngọc Chi, PADG, Wekipedia, The New Testament of NAB)


Nước Israel (giữa vòng trắng) là nước bé nhỏ nằm bên cạnh những nước láng diềng rộng lớn.

 

 

(Tham khảo: Phúc âm dẫn giải, New testment NAB, Bách khoa toàn thư)



http://tailieuThanhMau.net

Thursday, October 3, 2024

THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG VÀ CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG


Thánh Nữ Têrêxa sinh tại Alencon bên Pháp năm 1873. Cha mẹ ngài là ông bà Louis Martin và Zélie Guérin rất đạo đức, đã được tuyên thánh ngày 12/7/2016 (đã sửa bản viết cũ). Ông bà có 9 người con nhưng 4 người chết sớm. Trong 5 người con gái còn lại, Têrêxa là con út: 4 người vào dòng kín Camêlô và Léonine đi tu dòng Thăm Viếng.
Têrêxa mồ côi mẹ năm lên 4 tuổi, và gia đình dọn về thành Lisieux. Têrêxa có ý định đi vào dòng kín tại đây mặc dù tuổi còn nhỏ. Nhưng gia đình cũng như Đức cha Hugonin đều chống lại dự án này nên Têrêxa quyết định xin phép thẳng với ĐGH. Năm 1887, cùng với cha và chị Céline, Têrêxa đi hành hương Roma và trong buổi tiếp kiến ngày 20 tháng 11 năm 1887, Têrêxa xin ĐGH Leo XIII cho phép vào dòng kín mặc dù lúc đó mới được 14 tuổi. Nhưng cô chỉ nhận được một câu trở lời mơ hồ và được dẫn ra ngoài, nước mắt dàn dụa.
Trở về Lisieux, Têrêxa được phép ĐGM cho vào dòng kín vào ngày 9-4-1888, lúc đó chị mới được 15 tuổi và 3 tháng. 24 nữ tu tiếp đón Têrêxa. Cuộc sống trong đan viện có nhiều cam go về mặt vật chất cũng như về kỷ luật. Chị Têrêxa ngày càng tiến triển trên con đường yêu mến Chúa. Ước muốn cứu rỗi các linh hồn thúc đẩy Têrêxa định xin tới dòng kín Camêlô ở Sàigon, nhưng vì bệnh lao phổi, nên chị Têrêxa phải bỏ ý định này, và từ tháng 4 năm 1897, Têrêxa không thể tham dự đời sống cộng đoàn nữa. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 lúc mới được 24 tuổi đời. Chỉ 27 năm sau đó, Đức Pio XI đã tôn phong Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên bậc hiển thánh và 2 năm sau ngài tôn thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo, giống như thánh Phanxicô Xavie, Tông đồ miền Viễn Đông.
 

 
Các tác phẩm của Thánh Têrêsa
Ngày 30 tháng 9 năm 1898, tức là đúng một năm sau khi Chị Têrêxa qua đời, Mẹ Agnès Chúa Giêsu và Mẹ Marie Gonzague đã cho ấn hành theo thông lệ một thư luân lưu về nữ tu quá cố và gửi tới tất cả các đan viện kín Camêlô. Chỉ khác một điều là bức thư này dày tới 476 trang. Tác phẩm đó mang tựa đề “Truyện một tâm hồn” và trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Cuốn sách này được Mẹ Agnès soạn lại dựa trên 3 thủ bản A, B, C. Mãi tới năm 1956, cha Francois de Sante Marie mới trình bày bản phê bình, gồm các nguyên bản với phần dẫn nhập và chú thích.
+ Thủ bản A là tác phẩm được Têrêxa viết ra theo lời yêu cầu của Mẹ Agnès để kể lại những năm đầu tiên trong cuộc đời thánh nữ. “Truyện mùa xuân của một bông hoa trắng nhỏ”, do Têrêxa dùng những giờ phút rảnh rỗi giữa công việc và kinh nguyện để viết lại.
+ Thủ bản B được Thánh Nữ Têrêxa kết thúc vào trung tuần tháng 9 năm 1896: Trong một cuộc tĩnh tâm trong cô tịch, Têrêxa nhận được lá thư của chị Marie Thánh Tâm xin Têrêxa chia sẻ những ánh sáng thiêng liêng đã nhận được trong cuộc tĩnh tâm ấy. Ngay ngày hôm ấy, 13-9-1896, Têrêxa trả lời cho chị Marie, thông báo cho chị kinh nguyện dài mà Têrêxa đã viết ngày 8-9-1896 trước đó để kỷ niệm ngày khấn dòng, đồng thời kèm theo một thư dài. Thư này cùng với kinh nguyện vừa nói họp thành điều mà người ta gọi là “Thủ Bản B”. Trong thủ bản này Têrêxa cũng kể lại một giấc mơ và mô tả các mong ước, các ơn gọi mà Têrêxa ước mong được sống.
+ Thủ bản C do Têrêxa viết ra trong những tháng trước khi qua đời và lần này chị cũng viết vì đức vâng lời. Sứ mạng huynh đệ mà Têrêxa mô tả chính là một chứng tá sâu xa về đặc sủng Camêlô do Thánh Nữ Têrêxa Avila đã đề xướng khi cải tổ dòng Camêlo.
Ngoài ra, còn có các Thư của Têrêxa được công bố toàn bộ vào năm 1948, gồm 266 thư và miếng giấy nhỏ để ghi.
Các thư này được gửi cho những người thân yêu trong gia đình, 7 giáo sĩ, 3 tu huynh và hai bạn gái. Còn thiếu khoảng 60 thư Thánh Nữ Têrêxa viết cho cha giải tội và một số thư viết cho các “người anh thừa sai.” Tất cả các thư cho thấy, mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng Têrêxa đã thi hành nhiệm vụ hướng dẫn các linh hồn qua các thư từ đó.
 

 
Tập vở vàng gọi là Những Lời Sau Cùng, là tập hợp các lời cuối cùng của Têrêxa ghi lại trên cuốn vở của Mẹ Agnès. Tập này được chính Mẹ Agnès soạn lại, qua đó người ta thấy được chân dung của Thánh Nữ Têrêxa như một phụ nữ bị đóng đinh và chịu đau khổ khôn lường.
Năm 1952, cuốn Huấn dụ và Ghi niệm được công bố, rút từ những tuyên bố mà các nữ tập sinh dòng kín Camêlô ở Lisieux đã cung khai trong cuộc điều tra phong chân phước cho Têrêxa.
Thánh nữ Têrêxa cũng viết 54 bài thơ, được thu thập lại và trình bày trong ấn bản phê bình vào năm 1979. Ngày nay, sau 20 năm trời nghiên cứu, toàn bộ các tác phẩm của Thánh nữ Têrêxa đã được xuất bản theo nguyên tắc phê bình khoa học và được dịch ra các thứ tiếng.
------------------------
Lm Trần Đức Anh, OP

CÓ hay KHÔNG:

 

CHUYỆN HỎA NGỤC?
-----------------------------
 

1. Có hỏa ngục không? Sao mà ta biết nó có hay không?
2. Hỏa ngục ra sao? Để làm gì? Có câu chuyện hay hình ảnh nào cho thấy trước không?
3. Ai dựng nên nó? Thiên Chúa, ma quỷ hay ai đã tạo ra?
4. Hỏa ngục xuất hiện từ khi nào? Nó tồn tại đến bao giờ?
5. Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy gì về điều này? (xin tham khảo 1033-1037)
------------------------------
Ngày nay người ta luôn hay làm ... và thường phải lấy “hỏa ngục” (giống án tử hình trên đời) ra để răn đe, nhắc nhớ những người cố tình sống không yêu thương tha nhân, từ chối hiệp thông trong Hội thánh và quyết định dứt bỏ vĩnh viễn tương quan với tình yêu Thiên Chúa.

NHỮNG GÌ MONG MUỐN còn lại...

Sống một cuộc đời ít phiền muộn
---------------------------------------

 
Tôi vừa đọc một cuốn sách cũ, tôi đã học được nhiều bài học sâu sắc. Tôi cảm thấy nó là cách rất tốt để mọi người có thể sống một cuộc đời ít phiền muộn. Chính vì vậy, tôi muốn chia sẻ đôi điều mà tôi đã học được từ cuốn sách ấy với mọi người..!
 
1. Sự thanh tịnh nằm ở trong tâm
Cả đời làm việc, đến cuối cùng chỉ muốn bản thân được an nhàn để hưởng thụ cuộc sống. Bạn luôn muốn tìm kiếm sự thanh tịnh ở bên ngoài trong khi bạn không phát hiện rằng nó là cái mà ai cũng có thể đạt được mà chỉ cần lấy ra từ trong tâm. Nếu tâm của bạn bớt tham sân si, bớt ganh đua, ghen ghét… thì tự khắc bản thân sẽ thấy thật thanh thản và thấy đời bỗng nhẹ nhàng làm sao.
 
2. Tức giận chỉ là một cục than hồng có thể làm đau người khác, nhưng người bị bỏng đầu tiên chính là bản thân bạn
Sẽ có lúc bạn cáu gắt với mọi người nhưng bạn đâu ngờ điều đó lại làm hại chính bản thân mình. Đừng bao giờ nói bất ky` câu gì khi bạn tức giận. Người ta thường nói : “Giận quá mất khôn”. Tôi nghĩ điều đó rất đúng, bởi tôi đã từng đánh mất một người bạn của mình chỉ vì nói ra những lời nặng nề kinh khủng khi bạn đó không làm tôi vừa ý. Lúc đó, tôi làm tổn thương người ấy để bây giờ tôi đánh mất một người bạn thân.
Tha thứ cho người khác, hóa ra là đang “cởi trói” cho chính mình.” Sự tha thứ không phải là những điều mà chúng ta làm cho người khác, mà chúng ta làm cho chính chúng ta đấy thôi".
 
3. Suy nghĩ sẽ định hình con người bạn
Chúng ta nghĩ thế nào thì con người chúng ta như thế ấy. Bạn nghĩ bạn vô dụng, chắc chắn bạn sẽ không bao giờ làm nên trò trống gì vì bạn chẳng thèm hành động. Bạn nghĩ bạn thông minh, dĩ nhiên bạn sẽ thông mình vì tự bản thân sẽ biết cách tạo nên điều đó. Chỉ cần suy nghĩ tích cực thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi! Do đó, cuộc sống cũng sẽ ít buồn phiền, vì lúc nào bạn cũng cố biến mọi thứ bạn gặp phải trong cuộc sống thành niềm vui riêng cho mình.
 
4. Biết người là thông minh, biết mình là sự giác ngộ
Chiến thắng bản thân còn hơn là chiến thắng cả ngàn trận đánh. Đó là một bài học sâu sắc mà ai cũng cần biết. Tự chinh phục tâm chính mình chính là ải lớn nhất mà con người phải trải qua. Do đó, chúng ta phải tập thiền định để hiểu về chính bản thân mình. Biết được bản thân thích gì, làm gì để thỏa mãn nó chính là cách để bạn sống vui hơn mỗi ngày.
Đừng tưởng đây là điều dễ thực hiện vì có người đã mất cả đời chỉ để làm điều này thôi đấy! Chính tôi cũng là người sẽ phải rèn luyện nhiều trong thời gian tới.
 
5. Thay thế đố ky. bằng ngưỡng mộ
Còn đố ky. thì tâm bạn sẽ còn buồn phiền. Thay vào đó, chúng ta nên đón nhận sự thành công của người khác bằng sự ngưỡng mộ. Tâm bình thản, không so đo sự thành công của người với sự chưa thành công của mình, rồi lấy cái tốt của người khác để làm gương sẽ khiến bạn dễ dàng phấn đấu mà không có sự căm phẫn. Đố ky. chỉ làm lòng người thêm nặng nề, nhơ bẩn, thậm chí vì đố ky. con người có thể biến chất, tâm không thể tự kềm chế khiến mình làm những hành động xấu xa mà đôi khi chính bản thân mình cũng không ngờ tới.
 
6. Nhân từ với tất thảy mọi người
Luôn luôn nhẹ nhàng với trẻ con, yêu thương người già, đồng cảm với người cùng khổ, nhân từ với kẻ yếu thế và người lầm lỗi. Một lúc nào đó trong đời, bạn sẽ rơi vào những hoàn cảnh đó. Động lòng trắc ẩn với mọi người, kẻ giàu cũng như người nghèo; AI CŨNG CÓ NỖI KHỔ. Có người chịu khổ nhiều, có người chịu khổ ít.
Nhân từ để yêu thương và đồng cảm với họ. Vì mỗi người có một nỗi khổ riêng chỉ có họ mới thấu. Bởi vì bạn luôn nhìn người bằng con mắt nhân từ nên đời bạn sẽ luôn đẹp. Mọi thứ đều hoàn hảo. Tâm can được thanh lọc bởi những hành động mà bạn dành cho người khác.
 
7. Tùy duyên
“Bàn tay ta vun đắp, thành bại thuộc vào duyên, Vinh nhục ai không gặp, có chi phải ưu phiền”
Bài học sâu sắc cuối cùng mà tôi đã học được chính là hãy cố hết sức mình, đến kết quả thì hãy để mọi thứ tùy duyên. Như nhà sư đã nói, cái gì của mình thì nó sẽ thuộc về mình, còn cái gì không phải thì nó mãi mãi sẽ không thuộc về mình. Vì vậy, nếu muốn nắm bắt gì đó, đặc biệt là tình yêu thì hãy để tùy duyên.
Bạn có thể cố gắng theo đuổi nhưng đôi lúc bạn cũng phải biết buông bỏ nếu mọi chuyện đã quá giới hạn và không còn khả năng cố gắng. Cứ nắm giữ chỉ làm bạn đau khổ rồi vấn vương muộn phiền sẽ là điều không thể né tránh. Tâm sẽ nhẹ nhàng nếu bạn để mọi thứ tùy duyên.
Đó là cách để bạn có thể chấp nhận cuộc sống dễ dàng hơn.
-----------------
Sưu tầm

Wednesday, October 2, 2024

Tác dụng của chườm nóng, chườm lạnh

Chườm nóng, chườm lạnh là các kỹ thuật đơn giản thường được hỗ trợ điều trị các bệnh lý. Để quá trình chườm lạnh, chườm nóng đem lại hiệu quả tốt người thực hiện cần theo dõi, quan sát để tránh những tai biến xảy ra như lạnh quá hay nóng quá, những tai biến này có thể gây bỏng cho bệnh nhân.

1. Tác dụng của chườm nóng, chườm lạnh

1.1. Tác dụng của chườm nóng

Chườm nóng có 3 tác dụng chính sau:

  • Tác dụng làm cho thân nhiệt tăng.
  • Làm giãn cơ, dây chằng và giảm kích thích thần kinh dẫn đến giảm đau.
  • Gây sung huyết cục bộ, làm tăng tuần hoàn tại chỗ, từ đó giúp quá trình liền vết thương nhanh hơn.

1. 2. Tác dụng chườm lạnh

Chườm lạnh có các tác dụng chính sau:

  • Giảm thân nhiệt.
  • Giảm đau do chấn thương cơ, dây chằng.
  • Tác dụng làm giảm sung huyết cục bộ.

Không chỉ giúp giảm đau, mà còn làm hạ thân nhiệt
Không chỉ giúp giảm đau, mà còn làm hạ thân nhiệt

2. Các phương pháp chườm nóng

Có 2 phương pháp chườm nóng là:

2.1. Chườm nóng ướt

Độ thân nhiệt sâu hơn làm cho bắp thịt đang co cứng giãn ra, tăng tuần hoàn, tăng hấp thu các chất dinh dưỡng, muối khoáng, thuốc.

Chườm nóng ướt bằng nhiều cách như: ngâm vùng cần chườm vào nước ấm, đắp parafin nóng hoặc các loại rượu quế, hồi. Khăn gạc tẩm nước nóng trong những trường hợp: vết thương hở, nhiễm khuẩn nhẹ, u nhọt.

2.2. Chườm nóng khô

Độ thân nhiệt không sâu, chủ yếu để bệnh nhân cảm thấy dễ chịu có tác dụng giảm đau và tăng tuần hoàn máu ngoại vi.

Chườm nóng khô có nhiều cách như dùng lò sưởi, chai nước nóng, gạch nướng, nước nóng đổ vào túi chườm.

Chỉ định

  • Cơn đau dạ dày, gan, thận hoặc khớp.
  • Viêm thanh quản, viêm khí quản.
  • Trẻ sơ sinh thiếu tháng, người già khi trời rét.

Chống chỉ định

  • Viêm ruột thừa.
  • Đau bụng không rõ nguyên nhân.
  • Các bệnh nhiễm khuẩn nặng gây mù.
  • Viêm phúc mạc.
  • Các trường hợp xuất huyết.
  • Chấn thương 24 giờ đầu vì dễ gây chảy máu lại do giãn mạch.

2.3. Lưu ý khi chường nóng

2.3.1 Nhiệt độ chườm nóng

  • Chườm nóng khô: Nhiệt độ trung bình 41 - 43 độ C, nhiệt độ cao 50 - 60 độ C.
  • Chườm nóng ướt: Nhiệt độ trung bình 40 độ C, nhiệt độ cao 50 độ C.

2.3.2 Thời gian chườm nóng

Thời gian chườm trung bình 20 - 30 phút mỗi lần. Sau 3h mới được chườm lại lần tiếp theo bởi chườm nóng liên tục có thể làm cho da mềm, lỗ chân lông giãn ra, vi khuẩn dễ xâm nhập vào cơ thể gây nhiễm khuẩn da, cơ...


Khi chườm nóng, chúng ta nên chú ý về thời gian để đạt hiệu quả cao
Khi chườm nóng, chúng ta nên chú ý về thời gian để đạt hiệu quả cao

3. Các phương pháp chườm lạnh

Có nhiều phương pháp như: Tắm, lau người bằng nước lạnh, chườm lạnh ướt và bằng nước đá.

3.1. Chỉ định

  • Thân nhiệt tăng cao.
  • Nhiễm khuẩn, áp xe.
  • Xuất huyết đường tiêu hóa.
  • Sau phẫu thuật cắt tuyến giáp cho bệnh cường tuyến giáp.
  • Chấn thương sọ não,...

3.2. Chống chỉ định

  • Tuần hoàn cục bộ giảm hoặc bệnh nhân táo bón.
  • Thân nhiệt thấp, người già yếu.
  • Xuất huyết đường hô hấp.

4. Các biến chứng có thể gặp do chườm nóng, chườm lạnh

  • Chườm lạnh: Có thể làm giảm thân nhiệt xuống dưới mức bình thường đối với các bệnh nhân hôn mê, rối loạn ý thức.
  • Chườm nóng: Có thể gây bỏng da vùng chườm do nước quá nóng, thời gian chườm quá dài và không làm đúng quy trình.

Chườm nóng, chườm lạnh là những phương pháp trị liệu; tuy nhiên nếu không hiểu đúng mà chườm sai thì không những không hỗ trợ điều trị bệnh mà còn khiến bệnh nặng thêm.

Mọi thắc mắc cần được tư vấn quý khách có thể liên hệ Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Sunday, September 29, 2024

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL VÀ RAPHAEL

 

A.    Lịch Sử

Thuật ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả.”  Theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.

Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa.”  Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.

Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”

Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa

Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp

 Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma.  Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael.  Theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

 B.    Ý Nghĩa...

Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng tương đối nói ít về các thiên thần.  Trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người.”  Đây là sự tích lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người.  Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người.  Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.

1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần.  Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe.  Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”

Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát.  Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe.  Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA.”  Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.

Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa.  Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài:  Ai bằng Thiên Chúa?  Vâng!  Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả.  Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.

2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ).   Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.

Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa.”

Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Daniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.  Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.

Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa.  Sứ thần của Chúa hiện ra với ông... thấy vậy ông bối rối.  Sự sợ hãi ập xuống trên ông.  Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan.”  Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?  Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi?  Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa.  Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông.  Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) v.v... Và sau đó mọi việc xảy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.

Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria.  Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn.  Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người.  Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa.”

 Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.  Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cững đã phải run rẩy mà thốt lên như thế này:

“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel.

Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn loài?”

Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.


 3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già.  Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.

 Cựu Ước nói về Raphael như thế này:

“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận.  Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa.  Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn.  Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở.  Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn.  Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia - Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay.  Tobia-con sẵn sàng vâng lời nhưng Tobia-con không biết đường đi.  Tổng lãnh Gabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để dẫn đường.  Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt.  Tới nơi Gabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm cho Tobia.

 Công việc xong,Tobia-con cùng với vợ trở về nhà.  Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha.  Tobia cha được khỏi mù, mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng.  Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giúp đỡ gia đình mình.  Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông.  Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.

 Câu chuyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người.  Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”

 Xin được kết thúc bằng câu chuyện thật đẹp này:

 Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện.  Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.

 Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:

 -       Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

 -       Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nói xong, Thiên thần biến đi.  Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

 Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra.  Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

 -       Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

 Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra.  Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường.  Thiên thần biến đi không nói một lời nào.  Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

 -       Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.

 Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:

 -       Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.

 Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

 -       Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu ?

 Lm. Giuse Đinh Tất Quý

WORLD WORLD